Tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" bài số 6
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. phổ quát câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ chuyên nghiệp về tả cảnh mà còn nhiều năm kinh nghiệm về tả tình cảm, tả tâm cảnh. Trong quan điểm của ông, 2 nguyên tố tình và cảnh ko tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tâm tư đầy xúc động. Bằng văn pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã diễn tả tâm cảnh nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. đấy là nỗi đơn chiếc, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và bác mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất có lí. Phần đầu tác nhái giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về các bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Khi không trong sáu câu thơ đầu được biểu đạt hoang vắng, mênh mông đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng trùng, ngửng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, thưa thớt như bụi trần nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, trơ thổ địa của nàng khi này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ 1 ko gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. ko gian đấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
1 chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều khi bấy giờ: vừa chán chường, buồn tủi cho thân phận mình, vừa hổ hang, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng san sẻ, đồng cảm có nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh bỗng dưng ko khách quan, mà sở hữu hồn, đấy chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều các ngày đơn chiếc ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm cảnh đơn chiếc, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều sắm về mang các người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du diễn tả rất xúc động trong các lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi thương nhớ được chia đều: bốn câu đầu dành cho tình nhân, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được kể đến trước vì đây là nồi nhớ nồng thắm và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên trong khoảng đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như đựng đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật thiết tha, mãnh liệt! Kiều mường tượng ra cảnh chàng Kim đang đêm ngày mong chờ tin mình một cách thức đau khổ và vô vọng. Mới ngày nào nàng cùng mang chàng Kim nặng lời ước hứa trăm năm mà bỗng dưng, nay trở nên kẻ phụ bạc, lỗi hứa với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, thế mà hiện tại mỗi người mỗi ngả. Rồi tự nhiên Kiều liên tưởng đên thân phận: Bên trời góc bể trơ khấc của mình và tự dằn vặt: Tấm son tẩy rửa bao giờ cho phai. Kiều nhớ tiếc mối ngọn nguồn trong trắng của mình, nàng nhằm nhè tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ với thể tẩy rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình có chàng Kim. Và đích thực, bóng chàng Kim cũng sẽ ko bao giờ nhạt phai trong tâm khảm Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ bồ, Kiều càng xót xa mường tưởng ba má. mặc dù nàng đã liều đem tấc với, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù đày, nhưng nghĩ về bố mẹ, bao trùm trong nàng là 1 nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng lúc nghĩ đến cảnh bác mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết lúc thời tiết thay đổi người nào là người chăm sóc bố mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công lúc tiêu dùng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều lúc mường tượng ba má, mường tượng nghĩa vụ khiến con của mình. Trong tình cảnh của Kiều, những nghĩ suy, tâm cảnh ấy càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu hạnh.
Nhớ ý trung nhân, nhớ cha mẹ, nhưng rồi rốt cục nàng Kiều lại quay về với hoàn cảnh của mình, sống với tâm trạng và thân phận bây giờ của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, dòng nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm tưởng nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi khi càng tô đậm thêm bằng bí quyết dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra 1 nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà ngóng chờ một chiếc gì đó mơ hồ sẽ đến khiến đổi thay trạng thái hiện giờ. dường như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thập thò, xa xa không rõ, như một hoài vọng mơ hồ, mỗi khi mỗi xa.
Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa xiêu dạt, ko biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh vô tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh sở hữu trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn ấy bỗng dội lên thành 1 nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh quéo ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt tác với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình hài hòa mang nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ biểu tượng cùng với việc dùng phổ biến từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nài, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều lúc ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tự nhiên đồng thời cũng là 1 bức tranh tâm cảnh mang bố cục chặt chẽ và khéo léo. tự dưng ở đây liên tiếp thay đổi theo diễn biến tâm cảnh của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh 1 chừng độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực thụ hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca tụng tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của các người đàn bà tài sắc mà bạc phận.