So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ "Tây Tiến" và "Đồng chí" bài 8
“ Có một bài ca không bao giờ quên…”. Lời bài hát gợi ta nhớ về những năm tháng hào hùng của dân tộc. Và người xây nên những bản tình ca không thể nào quên đấy là những người lính – con người đẹp nhất thời đại – người con trung hiếu của nhân dân. Cho nên, đừng ngạc nhiên hỏi vì sao văn học giai đoạn 1945 – 1975 lại có nhiều tác phẩm viết về người lính đến vậy. Nhưng có lẽ, để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính là hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp được thể hiện qua hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu. Bởi lẽ hai bài thơ đều khắc họa thành công những con người cao đẹp ấy, song mỗi người lại có cảm hứng của riêng mình, bút pháp nghệ thuật riêng của mình, khác hẳn nhau.
Một nhà văn nào đó đã nói rất đúng “Văn học là tôi, khoa học là chúng ta”. Đó là lý do rất xác đáng để lý giải sự khác nhau giữa hai bài thơ này. Nếu như Quang Dũng bắt gặp vẻ đẹp của người lính ở điểm này thì Chính Hữu lại thấy vẻ đẹp của anh bộ đội ở điểm khác. Thơ ca là những rung động của nghệ sĩ, là con đẻ của trạng thái tinh thần. Nó chỉ trào ra khi cảm xúc đã tràn ngập trong tim. Cảm xúc và rung động trong thế giới con người không bao giờ giống nhau cả. Nó là những vương quốc riêng và đầy bí ẩn. Ngay cả ở một con người, có thể trong một phút rung động, thơ ca cứ tự nhiên trào ra, nhưng khi để nó trôi qua rồi thì không thể lặp lại những rung động ấy. Nói như nhà thơ Xuân Diệu thì “sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm” không thể có “chúng ta” trong nghệ thuật.
Với Quang Dũng, ông bắt gặp vẻ đẹp tài hoa, nhưng cũng rất đỗi phi thường ở người lính Tây Tiến. Cũng chẳng có gì là lạ cả bởi phần đông đoàn quân Tây Tiến là học sinh Hà Nội “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. Họ mang trong mình lý tưởng của Đảng, chút mơ mộng của người trí thức tiểu tư sản. Sức mạnh của tuổi trẻ và chất con người Hà Nội vốn từ lâu nổi tiếng là thanh lịch, tài hoa. Chính tác giả cũng là người lính Tây Tiến nên những nét tài hoa đã thấm sâu vào da thịt, đi theo ông vào thơ ca. Có lẽ bì thế Tây Tiến tràn ngập một cảm hứng lãng mạn, một ngòi bút lãng mạn và thực sự chỉ có ngòi bút này mới làm nổi bật làm thăng hoa vẻ đẹp can trường, dũng cảm, nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã của đoàn quân Tây Tiến ấy.
Chính Hữu lại khác, ông xúc động trước tình đồng chí, đồng đội cao cả thiêng liêng của những người lính nông dân. Họ vốn xuất thân từ giếng nước, gốc đa, sân đình, sau lũy tre làng và mang trong mình tính chất hiền lành như hạt lúa, củ khoai của xóm làng. Nhà thơ cũng là người lính nông dân, cái chân chất, tình nghĩa ấy đã tạo ra bút pháp hiện thực trong tác phẩm Đồng chí. Nhưng đó cũng chính là điều làm nên thành công của tác phẩm. Nếu ở đây Chính Hữu dùng bút pháp lãng mạn hay một bút pháp nào khác thì tình đồng đội kia không thể chân thành, cảm động mà ngược lại sẽ rất sáo rỗng. Chỉ với bút pháp hiện thực, tình đồng chí mới thực sự chân chất, hiền lành, mộc mạc và cao cả.
Cả hai bài thơ đều đáp ứng được yêu cầu của nghệ thuật, và mỗi tác giả đã có những phong cách nổi bật của riêng mình. Họ viết về người lính đâu chỉ bằng trái tim mẫn cảm của nghệ sĩ, bằng khả năng của mỗi người mà còn có cả tấm lòng mến thương, kính yêu và biết ơn đồng đội của mình. Tất cả những điều đó đã làm lên sự bất tử của hai tác phẩm Tây Tiến và Đồng chí.
Ở bài Tây Tiến, tác giả luôn lôi cuốn người đọc theo những đợt sóng trào của tưởng tượng và cảm xúc, đồng thời bàn thơ mang âm điệu của thể hành, và rất gợi không khí Thục đạo nan. Những câu thơ trong Tây Tiến giàu chất tạo hình và thật khác thường. Qua ngòi bút lãng mạn, người lính hiện lên rất đỗi can trường nhưng cũng rất mực tài hoa.
Trong đoạn đầu, nhiều người cho rằng Quang Dũng chỉ đặc tả thiên nhiên Tây Bắc. Nếu chỉ hiểu như vậy thì chưa sâu, mà phải hiểu thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Nói đến thiên nhiên thì thức là có con người và ngược lại. Ở đây, khung cảnh chiến trường miền Tây hiện lên vô cùng ác liệt và dữ dội, không chỉ ở độ cao, độ sâu, đường khúc khuỷu, gập ghềnh “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, mà thú dữ còn luôn rình rập người chiến sĩ “đêm đêm Mường Hịch, cọp trêu người”. Nhưng trên tất cả, người lĩnh vẫn làm chủ thiên thiên, vượt qua khó khăn để đến tận cùng của cao độ “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Hình ảnh các anh thật hùng vĩ, sánh ngang trời đất. Những bước đi trong mây của các anh đẹp và kỳ vỹ chẳng khác nào Thành Gióng ngày xưa. Ngòi bút của Quang Dũng cũng thật khéo léo, tài tình: nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng, nói cái “bi” để tôn cái “tráng” thêm đẹp, tựa như lối “vẽ mây, nảy trăng” vậy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm...
Diện mạo người lính thật khác thường: rụng tóc vì sốt rét rừng, đói ăn, thiếu thốn nên da “xanh màu lá”. Thế nhưng họ không hề nhụt chí, mà ngược lại, hoàn cảnh khắc nghiệt càng làm họ chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường và bất khuất hơn. “Không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, nhưng “dữ oai hùm”. Ý thơ có sự tương phản giữa vẻ ngoài xanh xao tiều tụy vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần và nội tâm vững vàng của người lính. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước cùng vút bay lên để tôn thêm ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Họ sống phi thường, chết lại càng phi thường hơn:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Ở đây Quang Dũng đã bất tử hóa cái chết của người lính. “Anh về đất” là hóa thân vào non sông đất nước để tiếp thêm truyền thống cha ông “đêm đêm rì rầm trong tiếng đất”. Còn người lính, anh khoác trên mình tấm áo bào sang trọng cổ kính thay vì manh chiếu rách và ngã vào vòng tay đất mẹ như một đứa con thân yêu vừa làm tròn nghĩa vụ trở về. Nhà thơ đã mang đến cho đồng đội mình một cái chết lẫm liệt và tỏa ánh hào quang. Những câu thơ trên nói đến mất mát hy sinh nhưng lại không hề bi lụy, ngược lại nó nâng hình ảnh người lính lên tầm cao hơn của thời đại. Anh ta đi, quê hương ôm anh vào lòng, sống núi tấu lên “khúc độc hành” đưa anh về với đất mẹ. Thử hỏi còn cái chết nào đẹp hơn thế nữa?
Nhưng người lính Tây Tiến đâu chỉ có sự san trường và lòng dũng cảm; mang đậm chất con người Hà Nội nên họ có một tâm hồn lãng mạn, tài hoa. Sống giữa thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt, người lính vẫn nhận ra nét hoang sơ, hùng vĩ mà rất đỗi thơ mộng, ấm áp của núi rừng miền Tây. Trên những nẻo đường hành quân vất vả, các anh phóng tầm mắt nhìn xuống những thung lĩnh phủ kín trong mưa để ngắm nhìn những ngôi nhà thấp thoáng ẩn hiện sau làn mưa mỏng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Rồi cả những sợi khói chiều “thơm nếp xôi” của bàn tay em gái Mai Châu làm ấm lòng người chiến sĩ và để lại trong lòng họ nhiều kỷ niệm khó quên.
Đặc biệt, các anh còn tổ chức những đêm hội rực rỡ đuốc hoa, thắm thiết tình quân dân, như chẳng hề có chiến tranh nơi đây vậy. Bằng những chi tiết mềm mại, tinh tế của ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng tâm hồn người lính bay bổng trong khung cảnh miền Tây thơ mộng, duyên dáng và tình tứ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Những người lính say sưa trong tiếng nhạc, tiếng khèn man điệu thiết tha. Các chàng trai Hà thành ngỡ ngàng sung sướng trước dáng hồn sơn cước: “kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Mặc dù biết phía trước vẫn đầy những gian truân, hy sinh mất mát nhưng người lính Tây Tiến vẫn múa hát, vẫn lạc quan. Có thể hôm sau một người nào đó nằm lại nơi núi rừng miền Tây này, nhưng hôm nay họ vẫn say đời, say cảnh, vẫn mơ đến những hình ảnh đẹp của thơ và nhạc: “Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”. ngay cả những hình ảnh “dáng người trên độc mộc’, hay “hoa đong đưa” cũng gây ấn tượng đối với người lính Tây Tiến. Tâm hồn các anh lãng mạn, trẻ trung và tươi mát biết bao!
Quyết tâm đánh giặc, gian khổ đói rét không làm khô héo chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ, giữa lúc chiến đấu họ vẫn dành riêng cho mình góc tâm hồn hướng về quê hương và những người thân yêu:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mắt trừng” hiện vẻ dữ tợn của khí thế quyết tâm đánh giặc. Dữ dội như vậy mà không vơi lãng mạn, người lính vẫn nhớ về dáng thướt tha và mùi thơm của tóc người bạn gái thân thương. Ở các anh có con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ cùng tồn tại, nhưng nó không hề tách biệt mà luôn hài hòa, quấn quýt vào nhau để tạo ra nét tài hoa và vẻ kiêu dùng của đoàn quân Tây Tiến. Tác phẩm chinh phục ta bởi một tâm hồn biết lăn vào thời đại, sống hết mình cùng thời đại nhưng cũng luôn làm đẹp cuộc đời bằng những cảm xúc lãng mạn lớn lao.
Người lính trong bài thơ Đồng chí lại có một vẻ đẹp khác, ấy là sự chân thật, giản dị và chắt lọc. Những câu thơ hầu như đều để mộc, không trang điểm, không gọt giũa ngôn từ. Hình ảnh thơ bình dị, như được đưa thẳng từ đời thực vào thơ, không hề có dù chỉ một dấu vết của ước lệ hay điển cố. Và qua bài thơ này, Chính Hữu đã khắc họa thành công chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc và dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, cao cả của những người nông dân áo vải. Họ là những người từ những vùng quê lam lũ, đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu, mảnh ruộng, theo tiếng gọi cứu nước, các anh giữ từ quê hương lên đường chiến đấu:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Không mang vẻ kiêu hùng “ra đi là không trở lại” như người lĩnh Tây Tiến, nhưng tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động. Khi giặc đến, các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà lung lay để ra đi kháng chiến. Giản dị vậy thôi, nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng, không thể có một thái độ ra đi như vậy:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Ở nơi kháng chiến, người lính nông dân áo vải cùng có chung quê hương vất vả đói nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng và mục đích chiến đấu. Cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời những người lính với nhau để làm nên hai tiếng “đồng chí” xúc động và thiêng liêng. Cũng tại nơi đây, người lính luôn hiểu rằng, nơi quê nhà, người mẹ già, người vợ trẻ cùng đàn con thơ đang trông ngóng anh trở về:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toàn là phẩm chất cao đẹp của người lính. Với họ, vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, không có gì là phi thường cả:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Chính Hữu khắc họa hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải, nhưng đó không phải là điều chủ yếu mà nhà thơ muốn nói đến. Cái cần nói đến ở đây là vẻ đẹp tâm hồn người lính mà nơi phát ra vừng ánh sáng lung linh chính là tinh thần đồng đội, đồng chí. Ôi! Ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó, cái xiết tay được truyền hơi ấm, sức mạnh cho nhau. Đặc biệt là “miệng cười buốt giá” động viên nhau trong lúc gian khổ để xua đi cái lạnh lẽo, giá rét của thời tiết. Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa lòng người. Từ trong sự bình thường giản dị, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo…
Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về các anh trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi “rừng hoang sương muối”. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng lao vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi, lơ lửng nơi đầu súng. Những người lính nông dân hiện lên như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình bị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.
Ở đây, chân lý nghệ thuật “cái đẹp là sự giản dị” đã được nhất quán trong tác phẩm Đồng chí. Chính Hữu đã thành công trong một hướng thơ mới: hướng thơ đi vào khám phá ra cái lớn, cái đẹp đích thực của những gì gần gũi thân quen mà ta cứ ngỡ không có gì là thơ cả.
Với cảm hứng khác nhau, Quang Dũng và Chính Hữu đã tạc vào dòng thời gian những tượng đài người lính Cụ Hồ. Họ đều là những người con yêu nước, yêu Tổ quốc, sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ cho quê hương, đất nước. Nhưng mỗi bài thơ lại mang đến cho ta những vẻ đẹp khác nhau về tâm hồn phong phú của người lính cũng như bút pháp nghệ thuật của từng nhà thơ. Và những vẻ đẹp khác nhau này không hề tách biệt nhau mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tạo nên vẻ đẹp chung của anh bộ đội Cụ Hồ và nét riêng của từng người lính, góp phần hoàn chỉnh một gương mặt đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam.