Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ "Tràng giang" số 5

“Thơ mới” xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm với những cái “tôi” cá nhân riêng. Và trong bức tranh nhiều cung bậc cảm xúc đó, Huy Cận được biết đến với hồn thơ buồn đến độ “ảo não”. Tác giả Hoài Thanh cũng đã từng viết về điều này: “... Ta ngẩn ngơ buồn trở về cùng Huy Cận” (“Thi nhân Việt Nam). “Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất và thể hiện rõ nhất nỗi buồn của Huy Cận. Trong bài thơ, chất cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa qua từng câu chữ, thi liệu, hình ảnh, ý thơ để làm nổi bật một tâm hồn giao hòa cùng vũ trụ, mang trong mình nỗi sầu nhân thế hòa quyện cùng tình yêu đất nước thầm kín.


Phong vị cổ điển của bài thơ trước hết được thể hiện rõ qua nhan đề “Tràng giang”. Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng khiến cho dòng sông như chảy từ một thuở xa xưa nào đó của lịch sử và thấm nhuần bao áng cổ thi. Đặc biệt, tác giả nói “Tràng giang” thay cho cách nói “Trường giang” thông thường đem đến cảm giác dòng sông như dài hơn, rộng hơn, mênh mang đến vô tận, bởi sự lặp lại của âm “ang” – một âm tiết mở có độ vang.


Xuyên suốt bài thơ, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa một cách tinh tế trong từng khổ thơ, thể hiện rõ qua từng câu chữ, từng hình ảnh, thi liệu. Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã sử dụng ý thơ của tao nhân xưa cùng những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ để chấm phá lên bức tranh của “Tràng giang” gam màu cổ điển:


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”


Ngay từ câu thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được phong vị cổ điển thông qua hình ảnh “sóng gợn”, gợi nhắc đến những vần thơ của Đỗ Phủ- bậc “thi thánh” trong nền văn học Trung Hoa ở bài “Đăng cao”:


“Vô biên mộc lạc tiêu tiêu hạ

Bất tận trường giang cổn cổn lai”

(“Rào rào lá trúc rừng cây thẳm

Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn”)

(Trích “Đăng cao”- Đỗ Phủ)


Nếu như nhà thơ Đỗ Phủ miêu tả thiên nhiên thông qua sự đối lập giữa sóng nước tuôn trào trong không gian của rừng cây thăm thẳm thì tác giả Huy Cận lại sử dụng nghệ thuật đối xứng “buồn điệp điệp”- “nước song song”. Những từ láy như “điệp điệp”, “song song” vừa tả sóng nước trên sông, vừa gợi nỗi lòng người và được đặt cuối mỗi câu thơ một cách tinh tế làm cho âm hưởng ngân vang và lan tỏa hơn. “Tràng giang” với muôn vàn con sóng nhỏ, nỗi buồn vô hình của thi nhân đã mượn chuyển động của từng con sóng để trở nên hữu hình. “Thuyền” và “nước” vốn là hai khái niệm gần gũi mang tính chất ước lệ trong thơ ca cổ được nhà thơ sử dụng và miêu tả trong sự đối xứng: con thuyền “xuôi mái” trôi trên dòng sông, sóng không vỗ vào mạn thuyền mà là “nước song song”.


Nghệ thuật đối của thơ Đường đã được tác giả vận dụng một cách linh hoạt, tạo nên sự cân đối, nhịp nhàng. Nhờ đó, cảnh vật hiện lên trong sự tĩnh lặng mang phong vị cổ điển. Còn ở hai câu thơ sau, bên cạnh vẻ đẹp cổ điển, bài thơ lại nét hiện đại của thơ mới qua hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Nếu thơ ca cổ đề cao vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của “phong, hoa, tuyết, nguyệt” thì Huy Cận lại thả trên dòng tràng giang một cành củi khô - một chi tiết vô cùng chân thực và thường thấy trong thơ hiện đại. Biện pháp đảo ngữ đã được tác giả vận dụng một cách tinh tế để tạo nên cách diễn đạt độc đáo: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thay cho cách nói thông thường: “Một cành củi khô lạc mấy dòng” vừa nhấn mạnh trạng thái khô khan, héo hon và không còn sức sống của cành củi, đồng thời nhấn mạnh sự ít ỏi qua việc sử dụng số từ “một”, từ đó độc giả có thể thấy được tâm trạng cô đơn của thi nhân giữa dòng “Tràng giang” trong không gian ba chiều vô cùng rộng lớn, bao la. Và khi rời dòng sông, đôi mắt của thi nhân lại đưa cái nhìn quan sát toàn cảnh của tràng giang:


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”


Gam màu cổ điển tiếp tục xuất hiện trong bức tranh thiên nhiên qua thi liệu, hình ảnh và ngôn từ. Trên những cồn cát nhỏ xuất hiện những làn gió “đìu hiu” mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tác giả đã vận dụng khéo léo từ ngữ “đìu hiu”vốn xuất hiện trong bản dịch “Chinh phụ ngâm” khi miêu tả không gian chiến trường thê lương và ảm đạm: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Việc nhà thơ Huy Cận chịu ảnh hưởng từ thơ văn cổ không chỉ đem đến phong vị cổ điển mà còn có tác dụng khắc họa cảnh nhưng vẫn chất chứa và mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Chất cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ cuối của bài thơ. Cảnh được gợi lên với bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca cổ khi miêu tả cánh chim trong hoàng hôn


“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”


Trong thơ ca xưa, cánh chim là thi liệu được dùng để điểm xuyết bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tà. Chúng ta từng bắt gặp hình ảnh cánh chim qua những ca dao hay rất nhiều tác phẩm văn học trung đại nổi tiếng:


“Chim bay về núi tối rồi”

(Ca dao)

“Chim hôm thoi thót về rừng”

(Truyện Kiều)


Trong thơ cổ, nỗi buồn hiu quạnh đã được gợi lên thông qua việc lấy không gian để miêu tả thời gian. Còn trong thơ Huy Cận, chúng ta cũng bắt gặp không gian trời chiều cùng cánh chinh đem đến phong vị cổ điển và gợi nhắc đến câu thơ của Vương Bột đời Đường: “Lạc hà cô lộ dữ tề phi” (Nắng chiều cùng cánh cò đơn chiếc đang bay). Cánh chim như một giọt nắng chiều đang rớt xuống và mang theo tâm trạng của người thi nhân.


Như vậy, bài thơ “Tràng giang” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên về dòng sông gần gũi và quen thuộc, ẩn chứa bức tranh tâm trạng với nỗi sầu thiên cổ, sầu vũ trụ và sầu nhân thế. Tất cả đã được thể hiện qua sự quyện hòa của phong vị cổ điển và những nét hiện đại và mới mẻ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |