Biến chứng của Ung thư đại tràng
Top 6 trong Top 8 điều cần biết về Ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng thường gây nên những biến chứng như tắc ruột, thủng ruột, áp xe quanh khối u và di căn.
- Tắc ruột: theo các nhà khoa học, có khoảng 30% các trường hợp ung thư đại tràng phải phẫu thuật cấp cứu do biến chứng tắc ruột. Hầu hết các trường hợp tắc ruột là do khối u làm tắc lòng đại tràng. Trong một số trường hợp, do thành đại tràng có khối u bị viêm, phù nề nên lòng đại tràng vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Một nguyên nhân khác làm tắc ruột là do lồng ruột, thường gặp khối u ở manh tràng lồng vào đại tràng lên. Tắc ruột đại tràng khác với tắc ruột ở ruột non, tình trạng rối loạn nước và chất điện giải xuất hiện rất sớm trong tắc ruột non nhưng lại muộn hơn khi tắc ruột ở đại tràng. Vì vậy triệu chứng toàn thân cũng khác, ở ruột non chỉ sau 2 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân đã suy sụp nhiều, trái lại ở đại tràng sau 3 - 4 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân vẫn còn tốt; do đó nếu ruột non bị tắc cần phải phẫu thuật ngay, còn đại tràng bị tắc có thể chờ đợi được.
- Thủng ruột: biến chứng thủng ruột thường gặp ở bệnh nhân đến bệnh viện với hội chứng viêm phúc mạc hoặc tắc ruột. Tỉ lệ người bệnh bị tử vong sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ rất cao, bệnh nhân bị tử vong không phải do phẫu thuật mà vì nhiễm khuẩn nặng. Lỗ thủng ruột có thể ở ngay khối u hoặc ở ngoài khối u, ở gần hoặc ở xa khối u; thực tế có thể gặp trường hợp tắc ruột ở đại tràng xích ma nhưng lại bị thủng ruột ở manh tràng. Việc quyết định xử trí tùy theo vị trí của lỗ thủng và tình trạng toàn thân của bệnh nhân.
- Áp-xe quanh khối u: biến chứng này không phải là hiếm gặp nhưng khó chẩn đoán, dễ nhầm lẫn với áp-xe ruột thừa, viêm túi mật cấp tính, áp-xe phần phụ... Dù áp-xe quanh khối u ở bên phải hay bên trái đều cần phải chích áp-xe, khi mủ đã bớt nhiều trong khoảng từ 7 - 10 ngày sau, phải mở bụng ra kiểm tra khối u và các cơ quan trong hố bụng; tùy tình trạng bệnh nhân và vị trí của khối u để xử trí.
- Di căn: xuất hiện muộn ở niêm mạc thành bụng, ở gan hoặc ở buồng trứng, các hạch... Thông thường trong khi phẫu thuật mới phát hiện thấy hiện tượng di căn. Sau phẫu thuật có thể có di căn ở phổi, phát hiện bằng cách chụp hình phổi. Cần theo dõi sự tái phát hoặc hiện tượng di căn sau phẫu thuật bằng xét nghiệm định lượng CEA (carcinoma embryonic antigen) là kháng nguyên phôi ung thư biểu mô..