Bài văn thuyết minh về cây đa - mẫu 4
“Bao năm ở chốn thị thành
Đã quên cả ánh trăng thanh chung tình
Hôm nay về lại quê mình
Cây đa bến nước sân đình đầy trăng”
(Nguyễn Văn Thưởng)
Cây đa đã là biểu tượng của làng quê Việt Nam từ xa xưa. Với những người con xa quê, khi nghĩ đến cây đa đầu làng, lòng người không khỏi nhói lên một niềm thương, nỗi nhớ quê nhà. Cây đa đã trở thành một phần không thể thiếu của mỗi làng quê Việt Nam.
Nguồn gốc của cây đa là ở Ấn Độ. Cây đa thuộc họ dâu tằm, giới Plantae. Cây đa là cây đại thụ, độ che phủ của tán lên đến vài nghìn mét vuông. Đường kính của tán cây lên đến hàng trăm mét. Có nhiều loại như đa dạng, búp đỏ, tần bì.
Cây đa, tên khác: cây đa đa, dây hải sơn, cây dong, cây đa, có danh pháp khoa học hai phần (theo Bailey năm 1976) là Ficus bengalensis, một loài cây thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), nó có thể phát triển thành loài cây khổng lồ mà tán của nó che phủ đến một vài nghìn mét vuông. Tại Việt Nam, một số người nhầm nó với cây sanh là cây cùng chi nhưng có tên khoa học khác hẳn.
Cây Đa, giống như nhiều loài cây thuộc chi Ficus khác như si (Ficus stricta), sanh (Ficus benjamina), vả (Ficus auriculata), quả vả hoặc vô hoa quả (Ficus carica), đa lông (Ficus drupacea), gừa (Ficus microcarpa), trâu cổ (Ficus pumila), sung (Ficus racemosa), bồ đề hay đề (Ficus religiosa) v.v. Đa có phương thức sinh trưởng không bình thường. Chúng là loài cây lớn mà thông thường bắt đầu sự sống như là loại cây biểu sinh trồng từ hạt trên các loại cây khác (hoặc trên các công trình kiến trúc như nhà cửa, cầu cống) do các loài chim ăn quả phân tán hạt. Cây trồng từ hạt nhanh chóng phát triển các rễ khí từ các cành cây, và các rễ khí này sẽ phát triển thành thân cây thực thụ khi chúng chạm tới mặt đất. Cây chủ cuối cùng sẽ bị bóp nghẹt hay bị phân chia ra bởi sự phát triển nhanh của cây đa. Lá đa có hình bầu dục, màu xanh nhạt, trên mặt lá nổi rõ gân xanh, phiến lá chứa nhiều nang thạch.
Cây đa có thể được trồng bằng cách giâm cành, chiết cành. Các thị trấn ven biển nhất đã mọc lên từ quận. Hạt đa bám vào cây nào khi đậu quả chim chóc rớt hạt, sống trên cây rồi lấn át cây chủ mà lớn lên. Cây đa là một loại cây có rất nhiều công dụng đối với con người. Dùng vỏ cây đa giúp chữa tiêu chảy hiệu quả. Rễ đa giác có tác dụng chữa xơ gan, lợi tiểu. Cành cây đa là nơi tụ họp của những cô gái chèo thuyền, cô gái, … với tiếng hát réo rắt. Những tán cây rộng ở vùng quê, mang lại bóng mát cho các bà, các bác nông dân hay khách thập phương đi đường xa. Gốc Đá còn là nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ với nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như: Chuyền bài, bịt mắt bắt dê hay chơi lu.
Ở nước ta hình ảnh cây đa đã gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ người dân. Chúng được trồng nhiều ở nhiều đình, chùa hoặc đầu làng. Hầu như ở địa phương nào cũng có những cây đa cổ thụ nằm bên cạnh các di tích. Người ta quan niệm rằng cây đa cổ thụ biểu trưng cho sự trường tồn, sức dẻo dai và dũng mãnh để bảo vệ người dân làng khỏi giông tố và mang lại vẻ bình yên. Không chỉ vậy, cây đa còn đi vào nhiều lời ca, trang thơ như một nét đẹp văn hóa của vùng quê.
“Trèo lên quan dốc ngồi gốc ối a câу đa
Rằng tôi lý ối a câу đa
Ai xui ôi à tính tang tình rằng
Ϲho cô mình gặp xem hội cái đêm trăng rằm
Rằng tôi lý ối a câу đa..."
Hay trong thơ Tản Đà:
“Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười."
Cây đa là biểu tượng của sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Cây đa còn là biểu tượng thần quyền và tâm linh của con người. Cây đa mãi là hình ảnh đẹp của làng quê văn hoá Việt Nam.