Bài văn suy nghĩ về sự hổ thẹn số 9
Âm hưởng tự bao đời của một thời đã đi qua vẫn vang mãi trong tim ta. Là chiến thắng tại Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng của Ngô vương để mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Là chiến thắng quân xâm lược Minh của vị chủ tướng Lê Lợi cùng bao người tài ba khác,...Những âm hưởng ấy không chỉ truyền mãi đến hôm nay và mai sau mà còn là cảm hứng bất tận trở về trong văn chương nghệ thuật để rồi những con người sống ở thời đại ấy đã viết lên những bài ca về thời đại mình. Phạm Ngũ Lão sống ở thời Trần - thời đại của hào khí Đông A và như một lẽ tất yếu, “Thuật hoài” của ông cũng mang âm hưởng của thời đại ấy. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước.
Mỗi người đều có quan điểm và cái lý của riêng mình. Nhưng theo tôi, bài thơ là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Bởi trước hết, ngay từ mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã dành lời ngợi ca cho vẻ đẹp của người tráng sĩ thời Trần:
"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Người tráng sĩ xuất hiện trong tư thế "hoành sóc” gợi tư thế vững chãi, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Với bối cảnh "giang sơn kháp kỉ thu” gợi một không gian rộng và một thời gian dài đã thể hiện được tầm vóc của con người vũ trụ với sự kiên định, bền bỉ, dẻo dai. Lời thơ còn đưa ta đến với hình ảnh một đội quân mạnh mẽ, hùng cường. Hai câu thơ đã khắc họa thành công tầm vóc của con người thời đại cũng như sức mạnh của dân tộc, làm sống dậy hào khí Đông A, bật lên sức mạnh đoàn kết, cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài thơ còn là biểu hiện một hoài bão lớn lao của một con người yêu nước vì tiếp đó, tác giả nhắc đến chí làm trai và nỗi thẹn của lòng mình:
"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
Nỗi lòng của nhà thơ hay cũng chính là vùng tâm tráng chí của một vị tướng tài ba. Chí làm trai – theo đó là quan điểm của Nho giáo : trang nam nhi thời phong kiến phải lập công lập danh, để lại sự nghiệp lẫy lừng, tiếng thơm muôn đời. Khát vọng ấy đã trở thành lý tưởng sống, trở đi trở về trong văn học trung đại:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”
Hay :
"Chí làm trai nam bắc tây đông Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”.
Thời điểm viết bài, Phạm Ngũ Lão đã có đầy đủ công danh, sự nghiệp mà vẫn còn day dứt, băn khoăn về món nợ công danh chưa trả, qua đó bộc lộ nhân cách của một con người luôn khao khát cống hiến và mang ý thức tu thân. Ông không chỉ băn khoăn về món nợ công danh mà còn thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu. Cổ sử ghi lại là con người tài năng, mưu lược, một vị quân sư, một trung thần giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực cho sự nghiệp của đời mình, thấy hổ thẹn khi công danh không bằng Vũ Hầu, nỗi thẹn nung nấu khát vọng lập công, nỗi thẹn không làm con người trở nên thấp hèn mà càng tô đậm nhân cách của con người. Ta lại nhớ đến Nguyễn Khuyến thấy thẹn với ông Đào Uyên Minh vì vẫn còn dùng dằng không biết nên ở hay nên đi, ngay cả khi đã xác định về với chốn cũ mà vẫn "ngửa lên thẹn trời”. Đến đầu thế kỉ XX, khi chưa tìm được con đường đi cho dân tộc thì Phan Bội Châu:
“Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng”.
Ấy chính là nỗi thẹn của những nhân cách lớn, là nỗi lòng của những bậc trung quân ái quốc với khát vọng cống hiến trọn đời cho đất nước.
Bài thơ chính là biểu hiện một hoài bão lớn lao của Phạm Ngũ Lão, cũng là của thời đại bấy giờ. Vấn đề mà Phạm Ngũ Lão đặt ra không chỉ thuộc về thời điểm lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa với muôn đời, rằng con người phải biết tu tâm, vượt lên để hoàn thiện, có trách nhiệm với giang sơn, xã tắc. Điều quan trọng hơn là lòng trung quân ái quốc phải đi liền với những hành động việc làm cụ thể. Âm hưởng của hào khí Đông A mãi mãi vang vọng như một khúc ca viết nên trang lịch sử của dân tộc.