Bài văn suy nghĩ về sự hổ thẹn số 8
Cảm hứng yêu nước trong giai đoạn văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến XIX là chất men say làm sống dậy hào khí của dân tộc trong thời kì nhân dân ta lập nên những chiến công hiển hách. Nổi bật hơn hết là chiến thắng oanh liệt ba lần đánh tan giặc Nguyên Mông xâm lược.
Vết son chói lọi đó in sâu vào lịch sử đấu tranh giữ nước sáng ngời truyền thống cao đẹp của dân tộc ta. Trong đó, Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi từng được mệnh danh “đánh đâu thắng đó”, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng những thành quả trong quá khứ. Ngày nay tên tuổi của ông vẫn còn sống mãi. Bài thơ duy nhất còn lại của ông là Thuật hoài cũng gây không ít những bàn cãi tranh luận. Thiết nghĩ chúng ta nên có những cái nhìn chung và xem xét kỹ để có thể từ đó hiểu thêm về con người và xã hội thời đó chăng?.
Có bạn cho sự hổ thẹn của tác giả là quá đúng, Phạm Ngũ Lão cùng đã lập chiến công, không cần phải thẹn, hạ thấp mình như thế. Ngược lại, có bạn cho đó là biểu hiện hoài bão lớn lao của trang nam nhi. Vậy sự hổ thẹn ở đây là gì? Và liệu nó có quá đáng hay không? Đó là những gút mắc, những điều bức xúc mà không chỉ có một mà nhiều người đặt ra khi thưởng thức tác phẩm Thuật hoài. Thuật hoài là một bài thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt được sáng tác để giãi bày nỗi lòng của Phạm Ngũ Lão. Câu cuối cùng có đề cập đến chữ thẹn:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).
Chữ thẹn ở đây là thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Vũ Hầu là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người được xem như bậc vi nhân từ Trung Quốc. Bằng tài trí, sức lực của mình, Khổng Minh đã giúp Lưu Bị từ tay trắng trở thành một đế vương. Công lao ấy, tài đức ấy luôn được xem là mục tiêu hướng tới người anh hùng của mọi thời đại, trong đó có Phạm Ngũ Lão. Ông cảm thấy thẹn, thấy xấu hổ vì không bằng người xưa, không thể đóng góp được nhiều hơn nữa, để đền “ơn vua, lộc nước”. Sự hổ thẹn ở đây không có gì là quá đáng. Kẻ nam nhi ngày xưa luôn mong muốn vươn tới đỉnh cao nhất của vinh quang, được đem trí tuệ, tài sức để giúp vua, giúp nước, được cống hiến hết lòng mình vì sự nghiệp chung.
Đó là những biểu hiện hoài bão lớn lao của trang nam nhi, nhận thức được trách nhiệm làm trai, không ngừng vươn lên, tự khẳng định bản thân và làm cho tên tuổi lưu danh ngàn đời. Do đó, chữ thẹn trong Thuật hoài không phải là sự hạ thấp mình của Phạm Ngũ Lão mà thể hiện lòng yêu nước thiết tha và ý thức bổn phận của ông. Thẹn không chỉ để thẹn, thẹn rồi mới biết tự khắc phục, tìm mọi cách để hoàn thiện bản thân. Đó là điều đáng trân trọng trong tính cách của ông.
Bài thơ Thuật hoài tái hiện tư thế hiên ngang, tầm vóc vũ trụ lớn lao, khí thế hào hùng qua nghệ thuật xây dựng hình ảnh hùng tráng múa giáo, khi mạnh át sao Ngưu. Bài thơ khẳng định ý chí sôi sục, quyết tâm cao độ được “nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc” của người anh hùng Phạm Ngũ Lão. Điều đó càng được thể hiện rõ qua từ thẹn của câu cuối. Từ thẹn đặt trong bài thơ rất thích hợp với mạch thơ, nhịp thơ mạnh, chắc, rắn rỏi.
Thuật hoài không chỉ để bày tỏ nỗi lòng của tác giả mà bài thơ còn là lời nhắc nhở đối với bậc nam nhi phải có ý cầu tiến, xả thân vì nghĩa lớn. Đây cũng là bài học đầy ý nghĩa thiết thực cho những con người hôm qua, hôm nay và mai sau. Sự hổ thẹn của tác giả không có gì quá đáng, quá đáng chăng là những người trai không ý thức trách nhiệm của mình, lười nhác, chỉ hưởng không công, hoặc những người mãi ca ngợi chiến công mà “ngủ say trong chiến thắng” hay mơ về quá khứ rực rỡ oanh liệt mà quên đi thực tại. Trong bài Cảm hoài của Đặng Dung, chữ “thẹn” thể hiện rõ nhất ở hai dòng cuối:
Bạc đầu thù nước còn chưa trả, Mấy độ mài trăng bóng nguyệt tà.
Ông thẹn cho mình thời gian còn ngắn ngủi, đời người qua mau trong vô vị, chưa làm nên được việc hiển hách, chưa làm tròn nhiệm vụ rửa nhục nước, trả thù nhà. Ông không thể làm gì được nữa. Thật phí cho tài cao chí lớn nhưng không được trọng dụng. Đây là cái thẹn của người thất thế. Trên đây là những con người dù ở những thời khác nhau, vị thế khác nhau nhưng họ đều có tấm lòng yêu nước, quyết tâm làm tròn, nghĩa vụ của một trang nam nhi đối với đất nước. Tấm lòng đó tràn đầy hoài bão cao đẹp, không bao giờ được thỏa mãn, không bao giờ thấy đủ khi họ chưa trút hơi thở sau cùng.
Với ý nghĩa to lớn như thế, tác dụng của Thuật hoài không chỉ có ở một thời đại mà mang giá trị chung của mọi thời đại. Chính nội dung, tầm tư tưởng đáng quý ấy đã làm cho bài thơ sống mãi qua bao nhiêu thời gian và tên tuổi Phạm Ngũ Lão trở nên bất tử. Ảnh hưởng của bài thơ trong thời đại chúng ta không những thiết thực mà còn bổ ích. Chúng ta phải làm gì để không phải hổ thẹn khi nhìn lại thời quá khứ hào hùng của dân tộc. Chúng ta cần làm hết sức mình, toàn tâm toàn ý hoàn thành nghĩa vụ của một người dân đối với đất nước.
Quả thật không ai có thể phủ định giá trị âm vang lời thơ mà Thuật hoài mang lại. Tác phẩm làm tăng thêm lòng tự hào dân tộc trong mỗi chúng ta và làm sống lại hào khí Đông A cao đẹp.