Bài văn phân tích vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ "Sóng" số 12
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất sắc như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó Xuân Quỳnh mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình yêu đến dập môi”. Ta gặp Nguyễn Bính “người nhà quê” chân thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ. Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã nêu lên đặc điểm của những con sóng:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
Không kể ở sông hay ở biển, lúc thì sóng “dữ dội”, “ồn ào” lúc lại “dịu êm”, “lặng lẽ”, dữ dội đấy rồi lại dịu êm đấy, chợt ồn ào rồi chợt lặng lẽ. Sóng luôn luôn biến đổi với những trạng thái đối nghịch. Sóng cũng không hiểu vì sao mình lại như thế nên muốn “tìm ra tận bể”. Phải chăng sóng nghĩ rằng nơi biển rộng mênh mông, nơi trời nước bao la ấy sẽ giúp cho sóng có thể hiểu được mình. Bằng phép nhân hóa, Xuân Quỳnh đã thể hiện những dằn vặt không hiểu nỗi mình của sóng.
Mượn sóng để làm biểu tượng cho tình yêu. Những đặc điểm không thể lí giải được của sóng cũng chính là cái đa dạng, phức tạp khó giải thích của tình yêu, nhất là trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu cũng mang trong lòng những đối nghịch thất thường và cũng “không hiểu nổi mình”. Bốn câu thơ mở đầu không có câu chữ nào dính dáng đến tình yêu nhưng bao trùm tất cả lại là cảm xúc yêu đương, cũng là một hình tượng khó lí giải cho minh bạch.
Tình yêu của con người muôn đời không thay đổi, cũng như những con sóng trường tồn với thời gian không ngừng nghỉ và mệt mỏi. Con sóng ngày xưa thế nào thì con sóng ngày nay vẫn thế:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trên mặt đại dương, “sóng” vĩnh hằng với thời gian, trong đời thường, tình yêu luôn hiện hữu “Làm sao sống được mà không yêu/ không nhớ không thương một kẻ nào”. Và tình yêu trở thành khát vọng của loài người, của nhân loại, đặc biệt là trong lòng những người trẻ tuổi. Tình yêu không bó hẹp trong một phạm vi giới hạn nào nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ. (Ở lứa tuổi mùa xuân của cuộc đời này, tình yêu mới phát triển mạnh mẽ và mang đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy hơi thở thanh xuân làm bồi hồi biết bao trái tim tuổi trẻ). Như vậy khát vọng tình yêu gắn liền với ngực trẻ và chỉ có trái tim tuổi trẻ mới đủ chỗ cho tình yêu. Nhà thơ Xuân Diệu có lần viết: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo/ Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”. Trước không gian bao la của vũ trụ, biển cả làm sao mà không trăn trở với những câu hỏi tự ngàn xưa:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”
Điệp từ “em nghĩ” thể hiện sự thao thức, lo lắng. “Nghĩ” và hỏi để rồi cố gắng tìm lời giải đáp cho sóng, cho tình yêu. Từ những nhận thức về sóng, cũng là tình yêu, nhà thơ đi tìm những biểu hiện của tình yêu qua hình tượng sóng. Trước hết, tình yêu là cái không thể cắt nghĩa, không thể trả lời:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng, thật khó mà trả lời cho chính xác. Song vẫn có thể nói: “Sóng bắt đầu từ gió”. Thế “Gió bắt đầu từ đâu” câu trả lời không dễ dàng, bởi xa hơn nữa vũ trụ có từ đâu. Soi vào “sóng”, người phụ nữ nghĩ về tình yêu của mình và đi tìm lời đáp cho sự khởi nguồn tình yêu của mình “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Đó là qui luật không thể lí giải được trong tình yêu. Nhà thơ Xuân Diệu từng viết “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”.
Thật ra khi yêu, người ta cứ muốn tìm hiểu, muốn giải thích: Vì sao ta yêu nhau? Ta yêu nhau từ khi nào, từ ngày nào? Hỏi người yêu và cũng tự hỏi mình, nhưng cũng như sóng biển và gió trời vậy thôi làm sao mà biết được. Tình yêu cũng như một số quy luật thiên nhiên có những bí ẩn mà con người không dễ tìm câu trả lời. Đoạn thơ bộc lộ tâm hồn thơ phụ nữ vừa chân thật, vừa dễ thương. Sang khổ năm, cũng từ hình tượng sóng Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nửa của tình yêu là nỗi nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.
Tình yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và nỗi nhớ là tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời, khi xa cách sẽ có nhiều nỗi nhớ: nhớ cha mẹ, nhớ anh chị, nhớ bạn bè… Trong thơ, nỗi nhớ của tình yêu có nhiều sắc thái riêng biệt. Nỗi nhớ là chứng tích cho một tình yêu đích thực: Hàn Mặc Tử có ý thơ đẹp: “Khi xa cách không gì bằng thương nhớ”. Ca dao có không ít câu bộc lộ nỗi nhớ trong tình yêu: “Nhớ ai em những khóc thầm/ Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa” hoặc “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Trong văn học trung đại, người xưa cũng từng có nỗi nhớ trong tình yêu: “Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/ Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”. Trong Truyện Kiều cũng từng có nỗi nhớ: “Sầu đông càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại môt ngày dài ghê”. Trong văn học hiện đại, nỗi nhớ tình yêu không ít, như Xuân Diệu “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”.
Trong thơ Xuân Quỳnh, nỗi nhớ được diễn tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở không gian nào: “dưới lòng sâu” âm thầm hay “trên mặt nước” dữ dội; Dù ở thời gian nào “ngày” hay “đêm”, sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn “bồn chồn thao thức và không ngủ được”. Tác giả đã lấy không gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở nên mãnh liệt, chân thành. Nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Từ hiện tượng sóng xôn xao suốt ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình yêu của mình: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một sự so sánh tuyệt vời: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái “thức” ở trong mơ đã nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức. “Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy chung:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
“Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu. Gian nan, thử thách là điều không thể tránh khỏi, càng xa cách, càng gian lao khổ cực, càng khẳng định sự bền vững thủy chung. Giống như những con sóng dù “xuôi Bắc, ngược Nam”, sóng vẫn muốn trở về với bờ. Cũng như “em” dù đi đâu về đâu, dù lên thác xuống ghềnh lòng em vẫn “hướng về anh một phương”, hướng về người yêu thương nhớ. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã dành “hệ quy chiếu” của đời em. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ. Từ quan niệm về tình yêu như thế, khổ thơ thứ bảy vang lên như một lời thề đầy xúc động nhưng mạnh mẽ, dứt khoát, nêu được sự quyết tâm của người đang yêu:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Những từ ngữ “ở ngoài kia” hay “muôn vời” chỉ sự xa cách giữa sóng và bờ, nhưng cả trăm nghìn con sóng, con nào cũng vượt qua bao cách trở để tới bờ. Một hình ảnh tuyệt đẹp mà chỉ có tâm trạng của người phụ nữ đang yêu mãnh liệt mới phát hiện ra một cách tinh tế đến như vậy. Ngày xưa lứa đôi yêu nhau, với sức mạnh của tình yêu, họ cũng quyết tâm vượt qua mọi thử thách: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm đời đời bên nhau. Cũng giống như Kim Trọng và Thúy Kiều, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, họ tìm đến với nhau sau muôn vàng cách trở. Xuân Quỳnh cũng từng khẳng định:
Tình ta như hàng cây đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông đã yên ngày thác lũ.
(Thư tình cuối mùa thu)
Sau những trăn trở, suy tư về tình yêu, về không gian, Xuân Quỳnh lại suy tư về thời gian, về cuộc đời:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
“Cuộc đời tuy dài thế” vì lúc đó nữ sĩ chỉ mới 25 tuổi còn cả cuộc đời đang ở phía trước. Tuy vậy Xuân Quỳnh vẫn nhận thấy cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người, của thời gian. “Trăm năm trong cõi người ta” ngỡ như thăm thẳm nhưng thời gian vẫn cuốn ta về với hư vô như biển kia dẫu rộng vẫn không lưu giữ được những áng mây bay về cõi xa xăm, vô định. Đoạn thơ thoáng một nỗi niềm khắc khoải lo âu về sự trôi chảy của thời gian và cái ngắn ngủi của cuộc đời.
Trong đoạn thơ tuy không hiện lên thành chữ, thành lời nhưng đó cũng là một thoáng lo âu rất chính đáng về tình yêu: liệu tình yêu có vượt qua những quy luật tất yếu của cuộc đời. Tình yêu đẹp là thế, thiêng liêng thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi, mong manh khó giữ. Trong thực tế tình yêu có khi chỉ là một khoảnh khắc: “Hôm nay yêu mai có thể xa rồi” (Nói cùng anh - Xuân Quỳnh), “Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết/ Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt” (Xuân Diệu), “Anh đã thấy một điều mong manh nhất/ Là tình yêu là tình yêu ngát hương” (Hương tình yêu-Đỗ Trung Quân). Rõ ràng, tình yêu dường như gắn với cái hữu hạn của đời người “Cuộc đời chẳng vô cùng em biết/ Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau” (Nói cùng anh - Xuân Quỳnh).
Vì thế để vượt qua giới hạn ấy, con người chỉ có một cách là hòa tan tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu, vào cuộc đời vĩnh hằng để ngàn năm sau những con sóng đại dương vẫn cất cao lời hát ca ngợi tình yêu bất diệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm cò vỗ”.
Nỗi trăn trở đã trở thành bức bách thôi thúc: làm sao được tan ra thành trăm con sóng nhỏ trong đại dương vô tận để được tồn tại mãi mãi, sống mãi giữa biển lớn tình yêu của nhân loại. Đó là khát vọng một tình yêu cao thượng, được chia sẻ, được hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu của chung cộng đồng, một ước vọng bay bổng tuyệt vời.
Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Hai khổ thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ về thời gian và khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường tồn, bất tử.
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa lãng mạn cùng thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
“Sóng” là bài thơ tình yêu hay trong chùm thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh. Bài thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu lắng thủy chung, một tình yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng muôn thuở của con người.