Bài văn phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ "Chiều tối" số 7
Nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đọc thơ của Bác Hồ đã từng viết:
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.”
Có thể nói nhận định trên đã nêu bật lên đặc điểm của phong cách thơ thơ Hồ Chí Minh: vừa giàu chất chiến đấu vừa đầy chất lãng mạn trữ tình. Nếu như mảng văn xuôi ghi dấu nhiều câu chuyện, bài báo giàu tính chất châm biếm, đấu tranh thì thơ trữ tình của Người lại thấm đẫm cả tinh thần nghệ sĩ và tinh thần Cách mạng. Trong đó, nổi bật là bài “Mộ” được trích từ tập Nhật kí trong tù. Đây là tác phẩm điển hình cho phong cách thơ của Bác: có sự hòa quyện tuyệt vời giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại
“Mộ” là bài thơ thứ 31 của tập Nhật kí trong tù, được Bác sáng tác vào cuối mùa thu năm 1942, trên đường đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Đó là một buổi chiều tối, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng Bác vẫn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà lao chật hẹp, bẩn thỉu. Nói cách khác, ở thời điểm ấy, những đày đọa ban ngày vẫn chưa qua và những đày đọa màn đêm lại sắp tới. Vậy mà, trong bài thơ lại tràn ngập ánh sáng của niềm tin và một tâm hồn ung dung, bình thản, tự do, tự tại.
Nhan đề “Chiều tối” thể hiện sự cảm nhận về thời gian của Bác khi rơi vào hoàn cảnh tù đày. Lấy “Chiều tối” làm thi đề cho bài thơ, Hồ Chí Minh đã tạo nên mạch chảy có tình truyền thống trong thơ. Ở hai câu đầu, nhà thơ vẽ ra cảnh thiên nhiên trong vùng sơn cước khi màn đêm buông xuống:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;".
Thiên nhiên mở ra bằng những thi liệu quen thuộc: Cánh chim - chòm mây. Trong thơ ca cổ điển phương Đông, cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà: “Chim bay về núi, tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thót về rừng” (Truyện Kiều )… Như vậy cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian, vừa mang ý nghĩa thời gian.
“Cô vân mạn mạn độ thiên không;”
Câu thơ gợi nhớ Thôi Hiệu “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” (Hoàng Hạc lâu ) và thơ Nguyễn Khuyến “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu ); có điều, trong thơ Bác đó không phải là áng mây trắng ngàn năm gợi sự vĩnh hằng, cũng không phải là tầng mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn mà cũng không mang bao nỗi khắc khoải mơ hồ của con người trước cõi hư không, không nhàn tản, thoát tục. Đây chỉ là một chòm mây quen thuộc trên bầu trời, nó gợi rất nhiều về cái cao rộng, trong trẻo, thanh bình, êm ả, mênh mông, tĩnh lặng của một chiều thu nơi núi rừng Quảng Tây. Với chòm mây ấy, không gian như mênh mông vô tận và thời gian như ngừng trôi.
Bức tranh thiên nhiên xóm núi lúc chiều tối được miêu tả bằng hai nét rất gợi cảm. Một cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng tìm cây trú ẩn. Một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) lơ lửng giữa bầu trời. Cảnh đẹp mà thoáng buồn đối nhau rất hài hoà. Chỉ hai nét vẽ, tả ít mà gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn cảnh vật. Tác đã vận dụng thi pháp cổ rất sáng tạo, lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh gợi lên một bầu trời mênh mông, bao la, một không gian vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ.
Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách, tuy giống như đám mây côi cút lẻ loi, những đám mây thì ít ra cũng có được sự tự do trên bầu trời, còn người tù thì không. Thế nhưng ta cần phải thấy rằng, chòm mây cô lẻ ấy chính là tâm hồn của người tù đang tự do trên không trung. Ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Bút pháp chấm phá chỉ với vài nét vẽ ( bầu trời, cánh chim và chòm mây ) đã tả được cái hồn của cảnh chiều nơi rừng núi. Không gian như được mở rộng ra, rất khoáng đãng, mênh mang.
Có thể thấy nhà thơ đã sử dụng cách truyền tải nội dung trữ tình theo cách tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thơ cổ. Thông qua hình ảnh “cánh chim” và hình ảnh “chòm mây bức tranh thiên nhiên chiều tối hiện ra với vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị. Hình ảnh của thơ Bác cũng mang tinh thần hiện đại bên cạnh những bút pháp cổ điển khi lựa chọn những hình ảnh bình dị của cuộc sống thường ngày, có thật trong đời sống. Hai câu đầu gợi tới hai câu trong bài Độc tọa Kính Đình sơn của Lí Bạch:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn.
Xuân Diệu dịch:
Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình.
Có thể thấy, nếu cánh chim trong thơ Lí Bạch bay mất hút vào cõi vô tận, gợi sự vô định, xa xăm, phiêu bạt thì trong thơ Bác đó là cánh chim của đời sống hiện thực, nó có điểm dừng ( về rừng ), nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: sáng bay đi kiếm ăn, tối bay về rừng tìm chốn ngủ. Nhà thơ không sử dụng bất cứ tính từ “tối” nào để nói về khoảng thời gian được quy chiếu trong bức tranh thơ những người đọc vẫn cảm nhận được sự vận hành của trời đất khi ngày tàn.
Sang hai câu cuối, ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận, thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với hình ảnh con người lao động trong không gian xóm núi:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nếu trong hai câu đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét vẽ chấm phá, phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh người phụ nữ lao động ở đây lại được gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Chính nét vẽ đời thường ấy làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự hình dung về cự li, khoảng cách với cánh chim và chòm mây (ở viễn cảnh ), hình ảnh cô gái xay ngô, hình ảnh con người (ở cận cảnh ) nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh vẽ cái thời khắc đầu đêm bên xóm núi cho thấy Bác đã quên cảnh ngộ đau khổ của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Nó nói lên sự quan tâm, tình thương của Bác với những người lao động nghèo mà sự làm việc nặng nhọc được biểu hiện qua âm điệu khắc khổ của lời thơ. Câu thơ thứ ba nguyên nghĩa là “Cô gái xóm núi xay ngô”. Đó là một câu miêu tả chân thật, giản dị như đời sống hằng ngày. Đến bây giờ, từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ cảnh trời mây chim muông chuyển sang cảnh con người và lại là con người lao động - đấy là xu hướng vận động trong cấu trúc của bài thơ.
Ba chữ "ma bao túc" được điệp lại, đảo lại thành "bao túc ma hoàn" có giá trị thẩm mỹ đặc sắc. Nó vừa gợi tả sự chuyển động liên tục, mải miết của cối xay ngô, vừa thể hiện đức tính cần mẫn của cô thiếu nữ nơi xóm núi, đồng thời tạo nên âm điệu nhịp nhàng của vần thơ. Hình ảnh "lò than đã rực hồng" (lô dĩ hồng) gợi lên một mái ấm gia đình yên vui. Trên đường đi đày nơi đất khách xa lạ, tâm hồn nhà thơ vẫn gắn bó với nhịp sống cần lao, hướng về ngọn lửa hồng, làm vơi đi ít nhiều cô đơn lẻ loi. Chữ "hồng" đặt cuối bài thơ, thi pháp cổ gọi là "thi nhãn", làm sáng bừng bức tranh xóm núi trong chiều tối.
Bức tranh "Chiều tối" từ tư tưởng đến hình tượng, từ không gian, thời gian đến cảm xúc đều được miêu tả, diễn tả trong trạng thái vận động. Vận động từ cảnh sắc thiên nhiên bầu trời đến bức tranh sinh hoạt trong gia đình, từ ngày tàn đến tối mịt, từ nỗi buồn mệt mỏi cô đơn đến niềm vui ấm áp đoàn tụ, từ bóng tối hướng tới ánh sáng. Đó cũng chính là vẻ đẹp rất hiện đại của bài thơ này.
"Chiều tối" là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Hồ Chủ tịch: vẻ đẹp cổ điển xen lẫn tinh thần hiện đại. Bài thơ đã mang tới người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động tươi đẹp của một buổi chiều trong vùng sơn cước. Đồng thời, nó cũng cho chúng ta thấy tâm hồn thanh cao, tinh thần lạc quan yêu đời của tác giả dù trong hoàn cảnh nào tác giả vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống vào tương lai đang trong cảnh tù đày, bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần.