Bài văn phân tích tác phẩm "Thuốc" của Lỗ Tấn số 6
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị tù túng, ngột ngạt của triều đại Mãn Thanh, cùng với sự can thiệp thô bạo của đế quốc, đất nước Trung Hoa rơi vào cảnh khủng hoảng, suy thoái hết sức trầm trọng. Bầu trời chính trị u ám, rối ren đã gieo rắc nỗi bất an, lo sợ vào tâm trí mỗi người dân Trung Quốc khi ấy, khiến họ chìm sâu vào u mê, ngu muội “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn là một bức tranh hiện thực đầy bi kịch về số phận những người cách mạng, vạch trần “căn bệnh tinh thần” của quần chúng, nhân dân.
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc những năm thế kỷ XX. Quê hương ông ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thuở nhỏ chứng kiến người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ước mơ trở thành thầy thuốc. Khi đang theo đuổi con đường lương y, ông đột ngột rẽ hướng để làm một nhà văn bởi ông cho rằng “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”.
Trong các tác phẩm của mình ông không ngại thẳng thắn phanh phui những thói hư, tật xấu của quần chúng, để tìm ra “phương thuốc chạy chữa”, để tự mình vươn lên, để làm nên một dân tộc tự lực, tự cường. Trong toàn bộ những sáng tác của mình, Lỗ Tấn tập trung khai phá những căn bệnh tinh thần khiến cho nhân dân mê muội, tự thoải mãn và dần tha hoá, ngòi bút sắc sảo cùng với thái độ tự phê phán nghiêm khắc của mình nhà văn đã tạo nên những tác phẩm rất sâu sắc và thấm đậm tính nhân văn.
Thuốc được viết năm 1919 đúng vào phong trào chống đế quốc phong kiến, đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh bùng nổ. Nói về căn bệnh “đớn hèn” của quần chúng và những người cách mạng thì lại xa rời nhân dân. Tác phẩm như hồi chuông cảnh báo : “Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu lấy dân tộc”.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã gây ấn tượng trong lòng người đọc bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn và súc tích: “Thuốc”. Không bằng những từ hoa mỹ hay cầu kỳ nhưng nhan đề đã đã nói lên được giá trị cốt lõi của tác phẩm với nhiều tầng nghĩa khác nhau. “Thuốc” ở đây có thể hiểu theo nghĩa thực trần trụi của nó – một chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Máu người có thể chữa bệnh ho lao? Sao lại có một lối suy nghĩ vừa quái dị, lạc hậu, mê tín và cực kỳ phản khoa học đến thế!
Nhà văn liên tưởng đến cái chết của cha, cũng do một ông thầy lang đã bốc để chữa bệnh phù thủng, là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ. Cách chữa bệnh bằng những bài thuốc mê tín của người dân, đã phần nào khắc hoạ được cho người đọc thấy một xã hội Trung Quốc u mê, dốt nát lúc bấy giờ.
Nhan đề tác phẩm không chỉ dừng lại ở nghĩa tường minh mà còn mang nghĩa hàm ẩn sâu sắc tác giả khéo léo gửi gắm vào đó. “Thuốc” dùng để chữa căn bệnh tinh thần: Căn bệnh gia trưởng, căn bệnh mê muội, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì thiếu hiểu biết và gia trưởng đã tự mình áp đặt cho đứa con một phương thuốc thật kinh dị là “chiếc bánh bao tẩm máu người”.
Khi cái chết đang trực chờ, họ lại đặt sự sống con mình vào ngõ cụt, có lẽ Thuyên đã sống sót nếu như được chữa trị đúng cách bởi vì lao là một căn bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi. Đáng buồn thay không chỉ vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người trong quán trà đều tin vào điều phi lý ấy. Bánh bao tẩm máu người chẳng phải thần dược như những kẻ ngu muội kia đang đặt hy vọng, mà nó chính là phương thuốc “độc” giết chết đi một mạng người, thế nhưng họ đặt hết niềm tin vào những điều viễn vọng, những sẽ điều không bao giờ xảy ra ấy.
Đất nước Trung Hoa đang nguy khó hơn bao giờ hết, ngay từ trong chính quần chúng nhân dân, họ đang mắc phải một căn bệnh tưởng chừng như nguy kịch không thể cứu chữa “u mê, lạc hậu về chính trị”. Người dân nô nức đi xem một chiến sĩ cách mạng bị xử tử, họ cho rằng đó là kẻ điên, là giặc và sẵn sàng mua máu anh về làm thuốc.
Người anh hùng dám dấn thân vào sự nghiệp bảo vệ đất nước, anh sẵn sàng hy sinh để cho người dân được hưởng tự do, độc lập. Ấy vậy mà khi anh nằm xuống, những con người ngu muội kia lại chẳng hề xót thương, trân trọng. Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh của nhân dân và cái sai của người làm cách mạng, họ xa rời nhân dân, không lấy nhân dân làm gốc, chính bởi lẽ đó đã làm cho đất nước ngày càng chìm sâu vào bế tắc, người dân thì u mê trong lối suy nghĩ tầm thường, lạc hậu.
Có thể nói nhan đề “Thuốc” đã gói trọn hết hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, là chủ đề tư tưởng bao trùm cả tác phẩm, nó nói lên nỗi trăn trở, xót xa của tác giả trước tình cảnh đất nước lâm nguy: Người dân không gắn bó với cách mạng, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Tác giả dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện vào “một đêm mùa thu” khi trời đã nhá nhem sáng, ngoài đường lúc này thật vắng lặng, ảm đạm không một bóng người “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ cả”. Lão Hoa dậy từ sớm, rời khỏi nhà từ lúc mặt trời còn chưa mọc đến pháp trường với hy vọng tìm được thứ thần dược cứu đứa con từ cõi chết trở về. Lão bước đều đều trên con đường tối om lạnh lẽo, lòng sảng khoái lạ lùng, lão thấy mình như trẻ lại và “ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh”.
Chẳng phải tự nhiên mà lão Hoa lại vui mừng đến thế, bởi lão nghĩ tới thằng Thuyên ở nhà sắp được cứu sống, đứa con trai duy nhất “mười đời độc đinh” đang mắc căn bệnh lao. Tới pháp trường, khi được tận mắt thấy trông thấy thứ “thần dược” ấy lão thật sự sợ hãi không dám đưa tay ra cầm lấy “chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi” đang nhỏ từng giọt, từng giọt ấy.
Thật đáng sợ biết bao, một chiếc bánh tẩm máu của người chết chém sao có thể trở thành thuốc chữa bệnh? Một người chiến sĩ bị xử tử, không ai xót thương, họ nhẫn tâm dùng máu của anh để đổi chác, họ coi anh như kẻ tội đồ dửng dưng trước cái chết đầy oan ức của người làm cách mạng. Lão Hoa nâng niu gói bánh như “đứa con của gia đình”, để cả tinh thần mình vào đó, tai lão lúc này chẳng nghe được gì nữa, chỉ duy nhất tiếng con trai đang chờ lão quay về.
Cái bánh bao loang lổ máu được bà Hoa gói vào trong một lá sen già và nướng trong bếp lửa thành một thứ “tròn tròn, đen đen”, vẫn một mực tin tưởng vào sự thần kỳ của vị thuốc quái dị kia “Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay”. Vợ chồng lão Hoa đứng trố mắt nhìn nhau, tin tưởng không một chút hoài nghi, chỉ cần ngủ một giấc dậy đứa con sẽ lại khoẻ mạnh như xưa. Tình yêu sâu sắc đối với đứa con duy nhất đã làm cho đôi vợ chồng già trở nên mê muội, mù quáng, vừa đáng thương vừa đáng trách.
Cũng chẳng riêng gì vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người đều tin vị thuốc phản khoa học, bác Cả Khang nói chắc như đinh đóng cột “cam đoan thế nào cũng khỏi”, các vị khách trong quán trà đều phụ hoạ theo “thứ thuốc này đặc biệt lắm”, “nhất định sẽ khỏi thôi mà”,… Những lời khẳng định chắc nịch của mọi người dường như gieo thêm đầy sự tin tưởng cho gia đình người chủ quán, không ai bàn tán gì thêm bởi họ nghĩ thằng Thuyên sẽ khỏi bệnh không thể nào khác đi được.
Vậy mà cuối cùng Thuyên cũng chết, cái chết đầy xót xa bởi nó giao hết sự sống của mình cho cha mẹ định đoạt, nó chẳng hề biết được rằng chính “chiếc bánh bao tẩm máu người” kia đã gián tiếp cướp đi sinh mạng mình. Nhà văn Lỗ Tấn đã vạch trần hiện thực đất nước Trung Quốc, dưới sự thống trị nhà Thanh đã đẩy người dân vào cuộc sống đầy bế tắc, chìm sâu vào những mê muội, lạc hậu. Bệnh tật không thể chữa được bằng phương pháp mê tín, mị đoan mà phải có một phương thuốc đặc hiệu.
Không cần dùng nhiều câu văn để miêu tả, Lỗ Tấn đã khéo léo lồng ghép vào trong cuộc nói chuyện của những người trong quán trà, một nhân vật người chiến sĩ cách mạng anh dũng với tên Hạ Du. Một trong số những người dân có tư tưởng sớm giác ngộ, anh chọn cho mình một lối đi hướng tới cách mạng, dám hy sinh thân mình cho đất nước, cho dân tộc. Thế nhưng trong mắt quần chúng anh chỉ là: "thằng quỷ sứ", "nhãi con", "khốn nạn", "điên"…
Ngay cả người chú ruột không nghĩ tới tình thân, lại đứng ra tố cáo cháu mình chỉ để đổi lấy hai mươi lạng bạc, họ tiếc cái áo hơn cả mạng sống con người, thậm chí lúc đã nằm xuống nơi pháp trường thì máu anh cũng dùng làm vật để họ trao đổi mua bán. Quả là một tình cảnh bi hài, trớ trêu người chiến sĩ bị gọi là giặc trong chính đất nước mà anh bảo vệ.
Tình cảnh Trung Quốc lúc bấy giờ như một kẻ bệnh tật đang đứng bên bờ cái chết, cần một liều thuốc đặc trị để thoát khỏi nạn vong quốc. Hình tượng người tử tù Hạ Du đã lên án, tố cáo gay gắt tình trạng suy thoái của đất nước, sự u mê của quần chúng về chính trị, sự xa lánh thoát ly ra khỏi quần chúng của người làm cách mạng.
Không gian trong truyện được bao trùm bởi sự bế tắc, u ám, lạnh lẽo, tuy nhiên thời gian trong truyện được Lỗ Tấn miêu tả có sự chuyển biến từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân “Tiết thanh minh” năm ấy, điểm nhìn của tác giả xuôi theo mạch suy tư lạc quan, niềm hy vọng về tương lai tươi đẹp của đất nước. Con đường mòn nhỏ hẹp, quanh co, người đi mãi cũng thành đường, từ lâu đã trở thành “ranh giới tự nhiên” giữa mộ những người chết chém, chết tù và mộ những người nghèo.
Cái ranh giới từ lâu đã hằn sâu trong lòng nhân dân, là sự phân biệt giữa những cuộc đời khác nhau lối suy nghĩ. Ngay cả mẹ Hạ Du cũng không hiểu được con mình, khi có người bắt gặp, bà chững lại không dám bước tới mộ con, sắc mặt “đỏ lên vì xấu hổ”. Con đường mòn kia dường như chẳng còn tồn tại khi bà Hoa sang bên kia phía trái con đường để an ủi, chia sẻ nỗi đau mất con với mẹ của Hạ Du.
Một vòng hoa nhỏ xuất hiện trên mộ Hạ Du, có thể là do một người dân đặt đó để tưởng nhớ đến công lao, sự hy sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng là tấm lòng thương xót, biết ơn của nhà văn dành tặng với một niềm hy vọng vào một đất nước Trung Quốc trong tương lai tươi sáng hơn.
Với ngòi bút cô đọng, súc tích, lối viết giàu hình ảnh sinh động, chân thực Lỗ Tấn đã gợi lên trong lòng người đọc những suy nghĩ băn khoăn về tình cảnh đất nước Trung Hoa thuở bấy giờ. Lỗ Tấn nhà văn lỗi lạc, là “linh hồn của dân tộc”, ông đã khóc trước “nỗi đau của dân tộc” trong từng tác phẩm của mình, với Thuốc là một truyện ngắn mang kích thước của một truyện dài, để lại giá trị lịch sử vô cùng to lớn cho đất nước.