Bài văn phân tích tác phẩm "Quy hứng" (Hứng trở về) số 7
Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người ở làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi, Hưng Yên), Ông là một danh thần dưới thời trần, cùng với đó là số lượng tác phẩm ông để lại, đặc biệt là "Giới hiên thi tập". Hứng trở về là một trong số những tác phẩm của Giới hiên thi tập được sáng tác khi tác giả đang đi sứ ở Trung Quốc, qua đây đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả. Tình yêu nồng nàn ấy được thể hiện bằng nỗi nhớ quê hương da diết và sự gắn bó với cuộc sống bình dị nơi quê nhà.
Đối với mỗi người con xa xứ, quê hương luôn là một nỗi nhớ man mác không nguôi, lúc nào trong họ cũng đau đáu một nỗi buồn, nhớ mong vô tận với quê hương, đó là nơi chôn rau cắt rốn nơi mẹ già luôn ngóng mong, nơi có những cánh đồng, dòng sông hay đơn giản chỉ là những bữa cơm đạm bạc. Chỉ là cà dầm tương, nhớ dáng ai tát nước, dãi gió dầm sương mà gợi ra bao nhiêu xúc cảm:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi gió dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Tình yêu đó hết sức bình dị, xuất phát từ mỗi con người và chẳng bao giờ chẳng nguôi ngoai nhất là khi đứng trên đất khách quê người. Những câu thơ viết về quê hương, những vần thơ gắn với chốn gắn bó máu thịt. Hứng trở về là một trong số những bài thơ mà đề tài về quê hương và nỗi lòng mong ngóng được trở về nới thân yêu đó.
Bằng tất cả những tình cảm đó, Hứng trở về đã sớm tạo dựng sự đồng cảm trong lòng độc giả. Bài thơ Hứng trở về mở đầu bằng nỗi nhớ quê hương da diết của người li khách cùng với đó là tình yêu quê hương đất nước, càng khiến tâm trạng tác giả nặng trĩu:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Những hình ảnh dâu, tằm, lúa đơm bông quá đỗi quen thuộc với miền quê Việt Nam khi sản xuất chu yếu. Những nương dâu xanh mướt, những cánh đồng lúa mênh mông, thấm những giọt mồ hôi nước mắt của ông cha từ bao đời nay. Chính những thứ thân quen nhỏ nhặt này lại có sức lay động mãnh liệt tới con người ta như thế. Hương thơm quen thuộc, một làn gió chiều, một hoàng hôn buồn cũng chỉ là do tâm hồn quá nhạy cảm trước thiên nhiên rộng lớn.
Mà cũng chính vì người mang tâm trạng nên cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng. Đứng giữa chốn phồn hoa, giữa bao nhiêu thú vui , nhưng luôn chọn cho mình một nơi để trở về- đó là quê hương. Nhưng đó chưa phải cái trọng tâm của nỗi niềm tác giả ẩn sâu đó là tình yêu quê hương đất nước và cả lòng tự hào tự tôn dân tộc.
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dầu vui đất khách chẳng bằng về
Tình yêu quê hương đất nước đó lại càng được thể hiên ở hai câu cuối này, sự đối lập giữa đất khách và quê nghèo, giữa chốn phồn hoa với chồn nghèo đói, càng đẩy tâm trạng và tình cảm của tác giả lên cao cao trào. Sự hồn hoa đô hội, giàu có và mới lạ nơi đất khách quê người cũng không đủ sức níu giữ bước chân của li khách. Nỗi nhớ quê càng thêm thường trực trong lòng.
Trong hoàn cảnh này của tác giả, điều đó còn có ý nghĩa sâu xa hơn nỗi nhớ quê đó là sự thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, còn khẳng định tấm lòng son sắt với quê hương của ông. Những xúc cảm của ông được thể hiện gián tiếp qua những hình ảnh bình dị quen thuộc nhưng lại dễ dàng đi vào lòng người. Khát khao cháy bỏng được trở về quê hương dâng lên ngùn ngụt, chỉ những kí ức những hình ảnh quê hương mới xoa dịu bớt nỗi đó.
Với những gì Hứng trở về mang tới cho độc giả, một hương vị mới cho thơ văn Việt Nam. Những ngôn từ hình ảnh hết đỗi bình dị hưng lại khai thác triệt để những xúc cảm không chỉ dâng lên trong chính tác giả mà trong chính nỗi lòng của những người con xa xứ, đang ngày đêm mong ngóng về quê nhà. Chính những nét đẹp giản dị này đã tạo nên dấu ấn của Hứng trở về trong lòng độc giả.