Bài văn phân tích tác phẩm "Chạy giặc" số 9
Nguyễn Đình Chiểu một ngôi sao sáng trong nền văn học dân tộc, tuy ông bị mù nhưng tâm hồn lại trong sáng như gương. Ông đã thấu hiểu hết nỗi thống khổ của người dân bần hàn cùng cực, nỗi khổ của những con người mất nước. Bài thơ “Chạy giặc” chính là một tác phẩm tiêu biểu của phong cách nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tác phẩm đã trở thành nhân chứng lịch sử, gắn với niềm vui, nỗi buồn của dân tộc. Bài thơ mang một ý nghĩa sâu sắc lay động bạn đọc.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ðồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc", bài thơ đã thể hiện chân thực nỗi khổ của nhân dân khi bị bọn thực dân giày xéo. Tác giả tuy bị mùa lòa nhưng nhìn thấu hết thế sự, lòng đau đớn xót xa khi dân tộc lâm vào cảnh lầm than, con trẻ phải sống trong sợ hãi, khổ cực.
Hai câu đề bài thơ đã nói lên cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ, chiến tranh nổ ra, trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế” chỉ cần “phút sa tay” vậy mà Thành Gia Định thất hủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Chỉ với hai câu thơ thôi mà mọi thứ đã hiện lên như một trang lịch sử.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bài cờ thế phút sa tay”
“Tiếng súng Tây” mới nghe thôi cũng có thể cho bạn đọc hình dung đến cảnh chiến tranh tàn khốc. Thực dân Pháp mang đến vũ khí hiện đại hơn chúng ta nhiều lần, chúng xâm chiếm nước ta, ép nhân dân ta vào bước đường cùng. Vậy mà “vừa nghe tiếng súng”, “phút sa tay” làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng và nói lên sự kinh hoàng của chính nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định thất thủ.
Trong hai câu thơ, tác giả đã sử dụng hình ảnh “Một bàn cờ thế” một cách nói ẩn dụ sâu sắc đầy ước lệ, hàm súc khiến cho bạn đọc hiểu ngay rằng đó là tình hình, cục diện chiến trường, và bàn cờ thế ấy đang nghiên về thực dân Pháp.
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Khó thể có hình ảnh nào đặc sắc hơn khi tác giả đã sử dụng những hình ảnh lũ trẻ và bầy chim để tả cảnh chạy loạn. Nhà thơ lấy hình ảnh bé bỏng, yêu thương “lũ trẻ” làm biểu tượng cho thế giới của con người, lấy hình ảnh đẹp đẽ, tự do “đàn chim” là biểu tượng của thế giới thiên nhiên. Hai hình ảnh rất điển hình cho quê hương đất nước. Vậy mà giờ đây "bỏ nhà", “lơ xơ chạy", "mất ổ”, “dáo dác bay" đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng.
Những từ láy gợi hình đã để lại những ấn tượng cực kỳ sâu sắc, nước mất thì nhà tan, trẻ em nhẽ ra phải được sống trong cảnh yêu bình mà giờ đây cũng phải chịu theo số mệnh đất nước, bị thực dân giày xéo, cảnh quê hương thanh bình nay trở nên dáo dác khi có bóng xâm lăng. Đặc sắc nghệ thuật của tác giả trong hai câu thơ này là phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ "bỏ nhà" và “mất ổ" tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên cảnh tang thương, đau xót nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Hai nơi ấy trước đây là là nơi sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập, Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Vậy mà trong “phút sa tay” đã bị giặc Pháp tàn phá, cướp bóc đến tiêu điều xơ xác. Tài sản của nhân dân bị cướp sạch, đã trở thành “tan bọt nước”. Nhà cửa, làng xóm bị đốt phá tan hoang, lửa khói ngút trời bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây."
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh lồng trong những hình ảnh đặc sắc “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây”, những hình ảnh đầy chắt lọc đã làm hiện lên tội ác tày trời của giặc. Thêm vào đó cũng chính là nỗi lòng của tác giả, nỗi đau đớn và sự căm thù kẻ cướp nước. Hai câu kết của bài thơ được viết ra là một câu hỏi tu từ:
“Hỏi trang dẹp loạn dày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Đây chính là cảm xúc nghẹn ngào đã trào dâng, biểu lộ một tâm trạng đau đớn. Một câu hỏi rất mong có câu trả lời. Rồi sau đây vận mệnh đất nước sẽ ra sao, tính mạng và tài sản của nhân dân ta rồi sẽ ra sao. Một câu hỏi thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng, thực sự sao lại để dân đen đến nỗi khổ cực này, thật quá xót xa.
Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc.
Bài thơ hiện lên như một trang lịch sử dân tộc đầy đau thương, thực dân Pháp xâm lăng, bờ cõi quốc gia khó giữ. Những khung cảnh chân thực, đầy bi ai hiện lên và lồng ghép trong đó chính là tình yêu thương của tác giả đối với dân tộc, đối với đất nước. Ngòi bút nhân đạo vừa thương vừa hận, hận lũ cướp nước, hận lũ gieo rắc lầm than, đây nhân dân đến chỗ khốn cùng.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế ỷi XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc.
Qua bài thơ Chạy giặc đã để lại trong lòng ta nhiều suy ngẫm, một thời kỳ lịch sử đất nước đau thương, thật sự đầy xót xa được ngòi bút nhân đạo Nguyễn Đình chiểu khắc họa rõ nét. Từ đó cho thấy một tâm hồn giàu tình thương con người, yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống, và thêm vào đó là lòng căm thù giặc sâu sắc, căm thù những kẻ đã lấy đi cuộc sống bình yên của biết bao con người của tác giả. Nghệ thuật trong bài thơ cũng mang đậm chất Nguyễn Đình Chiểu.