Bài văn phân tích nhân vật Trương Phi trong "Hồi trống Cổ Thành" số 1
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những bộ tiểu thuyết nổi tiếng nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, những mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những nhân vật đó, ta không thể không nhớ đến Trương Phi, bộc trực, thẳng thắn, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.
Tác phẩm ra đời vào đầu thời Minh, kể về một nước chia ba (cát cứ phân tranh) trong gần trăm năm của Trung Quốc thời cổ thời kì thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quyền, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là cát cứ phân tranh, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất.
Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều đó làm Trương Phi vô cùng giận dữ. Quan Công phải trải qua thử thách để minh chứng sự trong sạch của mình.
Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ có nữa lời nói dối, không mập mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất rõ ràng, rạch ròi qua câu nói với hai chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ có một chủ đó mà thôi, còn ai thờ hai chủ, ấy là kẻ phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi suy xét, phán đoán về sự xuất hiện của Quang Công. Quan Công đột nhiên trở về sau khi đã bội nghĩa vườn đào, bỏ lại anh mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công khi ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Bởi vậy sự trở về của Quan Công là để đánh lừa Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành. Thêm vào đó hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng làm cho Trương Phi tin tưởng vào nhận định của mình hơn. Trước những chứng cớ, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần buộc tội Quan Công. Buộc tội Quan Công vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Không dừng lại ở đó Trương Phi buộc tội Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một trung thần.
Từ những suy luận, những gì mình chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng hết sức quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Càn báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, lập tức đi tắt ra cửa bắc”, Trương Phi sẵn sàng giao chiến. Khi vừa nhìn thấy Quan Công “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công cất lời hỏi lí do “Trương Phi hất hàm quát, xưng hô mày tao”, buộc tội Quan Công phản bội. Dù được hai chị dâu cùng Tồn Càn thanh minh cho Quan Công nhưng Trương Phi gạt đi tất cả vẫn luôn giữ vững những lập luận và suy xét của mình. Nhất là khi toán quân mang cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng giận dữ hơn và quát: “bây giờ còn chối nữa thôi”. Quân mã mang cờ Tào kéo đến là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và ngay lập tức Trương Phi lấy bát xà mâu, xông đến đâm Trương Phi.
Trước yêu cầu của Quan Công chứng thực lòng trung thành của mình bằng cách chém đầu tướng Tào, Trương Phi nhận lời, nhưng đưa ra điều kiện thử thách Trương Phi, là phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống. Đây quả là thử thách rất lớn đối với Quan Công, nó vừa dùng để minh chứng cho sự trong sạch, vừa cho thấy tài năng của Quan Công. Vậy tại sao chỉ là ba hồi trống mà không phải năm hồi trống. Nếu năm hồi trống sẽ là quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy, vội vã của Trương Phi, đồng thời năm hồi trống sẽ hạ thấp tài nghệ của Quan Công. Bởi vậy, ba hồi là hợp lí nhất. Đồng thời, khi đưa ra điều kiện là ba hồi trống Trương Phi cũng ngầm thể hiện, gửi gắm niềm hi vọng với Quan Công, bằng Quan Công vẫn như xưa, không phản bội anh và chính mình.
Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đã hạ gục tướng của Tào Tháo, lòng trung của Quan Công đã được chứng thực. Đó cũng là giờ phút bắt đầu quá trình hòa giải. Nếu lúc đầu Trương Phi giận dữ, nóng nảy bao nhiêu thì đến đây lại thận trọng bấy nhiêu, khác hẳn tính cách thông thường của Trương Phi. Trương Phi làm như vậy là bởi rất sợ tình nghĩa anh em bị nên cần phải có thời gian để chứng thực lòng trung của Quan Công. Thực ra, trước khi Quan Công chém đầu Sái Dương, Trương Phi cũng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu tao” đã cho thấy Sái Dương không cùng phía với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hẳn. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của quân Tào để hỏi chuyện đầu đuôi, khi ấy Phi mới tin anh là thực. Tiếp đó là cuộc trò chuyện của hai chị dâu kể về quá trình vất vả, khó khăn biết bao nguy hiểm mà Quan Công đã phải trải qua, và Trương Phi đã hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã cho thấy rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi với Quan Công.
Nhân vật được xây dựng chủ yếu qua lời đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ suy nghĩ, tính cách nhân vật – Trương Phi một người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng hết sức tình nghĩa. Cốt truyện như một màn kịch giàu kịch tính, gây sức hấp dẫn với người đọc. Chi tiết truyện đặc sắc, đặc biệt là chi tiết hồi trống có ý nghĩa thách thức và minh oan.
Bằng cốt truyện hấp dẫn, với những chi tiết đặc sắc đoạn trích đã cho thấy tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi - vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời qua đoạn trích còn ca ngợi tình nghĩa cao đẹp, sâu nặng – một biểu hiện riêng biệt của lòng trung nghĩa.