Bài văn phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" số 8
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
Số phận của người nông dân trong thời kì thực dân nửa phong kiến, có lẽ cũng chính là hình ảnh con cò trong câu ca dao ấy. Nhưng trong họ, vẫn lóe lên ánh sáng của tình yêu thương, của sức phản kháng kì diệu. Và ta tìm được những điều ấy trong hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố.
Ngô Tất Tố(1893-1954), là một cây bút hiện thực sâu sắc trong dòng chảy của văn học 1930-1945. Ông thường viết về những người nông dân của làng quê Việt Nam, sống trong cảnh một cổ hai tròng mà mang nỗi uất ức. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Lều chõng”, “Việc làng”, “Tắt đèn” vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Trong đó, tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ là bức tranh hiện thực sâu sắc, bộn bề nhất mà ông dựng nên về làng quê Việt Nam trong những năm tháng thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm ra đời năm 1939, với những nhân vật như chị Dậu, anh Dậu, Nghị Quế, cái Tí,... đủ những tầng lớp giai cấp để làm nên xã hội thời bấy giờ. Trong đó, hình ảnh chị Dậu là nổi bật hơn cả, với nỗi khổ và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Trước hết, có thể thấy, chị Dậu phải sống trong cảnh tủi nhục đến khôn cùng. Nhà chị thuộc “hạng cùng đinh”, một mình chị gồng gánh lo cho một chồng và ba con. Người phụ nữ nông dân ấy phải lo tiền sưu thuế cho chồng, lại lo cho cả người em chồng đã mất năm ngoái.
Bọn cường hào lý trưởng nào có để chị yên. Không đến phá đám dọa nạt, lại bắt anh Dậu mà hành hạ cho đến chết đi sống lại. Để có tiền lo sưu thuế cho chồng, chị bán đi từng thứ trong nhà. Gánh khoai bán được chị đã bán, giờ phải bán đàn chó con còn chưa mở mắt, và rồi đến cả cái Tí- đứa con gái đầu còn chưa bảy tuổi cho nhà Nghị Quế. Có nỗi đau nào đau hơn lòng người mẹ ấy?
Đến thế mà vẫn chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng, chị bị bọn nhà Lý trưởng đến hành hạ, lăng nhục, bị tát, bị đánh không bằng con vật. Qua nỗi khổ của nhân vật chị Dậu ấy, ta nhận ra giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Là hiện thực chân thật đến trần trụi về bộ mặt của xã hội thực dân, chèn ép người nông dân cho đến tận cùng cực. Chúng dùng cái lí do sưu thuế để mà bóc lột, tra tấn họ. Đến cả người chết cũng phải nộp thuế, đến cả người đàn bà chúng cũng hành hạ, thử hỏi xã hội ấy thối nát đến mức nào?
Nhưng đó không phải là lí do để chị Dậu bị kéo xuống bùn đen của ô nhục. Ở chị, vẫn ngời lên những phẩm chất đẹp đẽ mà Ngô Tất Tố nhìn thấy ở người nông dân.
Có thể thấy, chị Dậu dù trong hoàn cảnh nào vẫn là một người phụ nữ giàu tình yêu thương. Sâu sắc nhất là tình thương dành cho người chồng của mình. Vì thương chồng nên chị chạy vạy đi vay nợ, bán chác để có tiền trả sưu thuế cho chồng, để anh Dậu không bị hành hạ. Tình thương ấy thể hiện ngay trong chính lời nói và cử chỉ với chồng. Chị liên tục động viên: “Thầy em cố ăn hết bát cháo cho mau khỏe...”, “chị đón cái Tỉu và ngồi xuống như chờ xem chồng có ăn ngon miệng không”.
Đó dường như đã là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam, ân cần, chu đáo và vị tha. Không một lời trách móc hay kêu ca, chị dành cho chồng sự chăm sóc tận tâm nhất. Đó có lẽ cũng là động lực phát sinh bên trong để chị vùng dậy đánh laj tên cai lệ, bảo vệ cho chồng. Phẩm chất ấy của chị thật đáng quý và đáng trân trọng biết nhường nào!
Nổi bật nhất trong nhân cách của chị Dậu, có lẽ chính là tinh thần phản kháng hết sức mạnh mẽ. Nhan đề có tên là “Tức nước vỡ bờ”, có nghĩa là, khi người nông dân bị đẩy vào hoàn cảnh éo le đến cùng cực, tự khắc họ sẽ phải trỗi dậy để chống lại áp bức ấy. Chị Dậu cũng vậy. Khi anh Dậu còn đang bệnh tật ốm yếu, bọn nhà Lý trưởng cùng tên cai lệ đã xông vào đòi chị nộp sưu, nếu không thì trói anh Dậu bắt đi.
Mặc dù chị đã hạ mình xuống để van xin khẩn thiết, chúng vẫn một mực không nghe, thậm chí còn xô ngã và đánh chị. Đây chính là lúc tức nước mà vỡ bờ! Sự phản kháng thể hiện ngay trong cách xưng hô. Lúc đầu, chị gọi bọn cai lệ là “ông”, xưng là “cháu”, còn thể hiện một sự nhún nhường, với thái độ van xin lễ phép. Nhưng lũ “đầu trâu mặt ngựa” ấy vẫn nhất quyết trói anh Dậu và thậm chị còn “bịch luôn vào ngực chị Dậu”.
Ngay sau lời đó, thái độ xưng hô đã chuyển thành “ông-tôi”, thể hiện sự ngang bằng, thách thức. Chị đã không còn đặt mình bên dười tên cai lệ ấy nữa, tất cả trở về vị trí ngang nhau. Nhưng sau cái tát của tên cai lệ, chị đã gọi hắn là “mày” và xưng “bà”. Chị đã đặt mình lên trên cả bọn cường hào ấy, thể hiện một thái độ thách thức, không ngần ngại đấu tranh với hắn. Ngay từ cách xưng hô, ta đã thấy một thái độ phản kháng mãnh liệt trong tâm hồn người phụ nữ này.
Sức phản kháng của chị Dậu thể hiện rõ nét ở từng hành động của chị. Ban đầu, chị thiết tha, khẩn khoản van nài, “chạy đến đỡ tay hắn”. Nhưng kể từ khi bị tên cai lệ “bịch vào ngực” và “tát vào mặt cái bốp”, một sức mạnh tiềm tàng được bùng phát lên. “Chị túm lấy cổ áo hắn, ấn dúi ra cửa”.
Rõ ràng, đó không còn là khuất phục, mà chính là đứng lên để chiến đấu, để bảo vệ chính mình. Đây chính là điểm sáng trong cái nhìn của Ngô Tất Tố, khi ông nhìn được ở người nông dân sức mạnh tiềm tàng như thế. Đây chính là con đường để người nông dân tự giải thoát cho mình, dẫn họ đến tương lai. Ánh sáng của cách mạng chưa thể đến được nơi đây, nhưng nó đã nhen nhóm lên ngọn lửa để chờ ngày bùng phát.
Xây dựng nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố tập trung khắc họa hành động, lời nói để làm nổi bật tính cách của chị. Ở “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu hiện lên trở thành tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì bấy giờ, có áp bức và có đấu tranh. Ở đây, ta thấy được cái nhìn đầy nhân đạo của Ngô Tất Tố dành cho người nông dân, khi đồng cảm cho thân phận, nỗi khổ của họ, đồng thời cũng trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những con người chân lấm tay bùn ấy. Có phải, những điều ấy làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm?
Dù hôm nay hay mai sau, “Tắt đèn”, “Tức nước vỡ bờ” và chị Dậu sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt, như ánh sáng của sức mạnh chị tạo ra trong chính cuộc đời của mình!