Bài văn phân tích khổ 2 bài thơ Viếng lăng Bác số 8
Viễn Phương là một trong những nhà thơ tiêu biểu đã gắn bó và sống trọn cuộc đời mình trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ác liệt của dân tộc. Ông cũng là người đã nhìn thấy được nhân dân ta đã kiên cường và giành thắng lợi vẻ vang như thế nào dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thế nhưng, trong ngày trọng đại và vui sướng nhất của đất nước thì lại thiếu vắng sự hiện diện của Vị Lãnh tụ vĩ đại trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân Việt Nam. Do đó mà tác phẩm Viếng lăng Bác của Viễn Phương như một sự ca ngợi, tôn kính và biết ơn công lao to lớn của Bác Hồ.
Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, sau khi quân ta anh dũng chiến đấu và cuối cùng cũng giành thắng lợi vẻ vang từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng toàn dân tộc Việt Nam. Lúc này, nhân dân mới gấp rút xây dựng lăng tưởng niệm Bác Hồ để di tích nhanh chóng được hoàn thiện và khánh thành.
Trong một lần nhà thơ Viễn Phương ra Bắc để viếng thăm Lăng Bác, ông đã sáng tác nên bài thơ bất hủ này để thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc dành cho Bác Hồ.
Trong khổ thơ thứ hai bài Viếng lăng Bác, tác giả đã kính cẩn sử dụng nhiều hình ẩn dụ, hoán dụ hình tượng của Bác hồ vĩ đại như nguồn sống của nhân loại, để thấy được những điều phi thường mà Bác đã dành cho cả dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay.
Tác giả Viễn Phương mượn hình ảnh thực kết hợp với sử dụng nghệ thuật ẩn dụ sóng đôi để so sánh Bác Hồ tượng trưng như mặt trời soi sáng cả nước Việt:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Ta có thể nhận ra trong hai câu thơ trên, điệp ngữ “ngày ngày” được tác giả khéo léo sử dụng như để thể hiện sự nối tiếp lặp đi lặp lại hằng ngày. Điều đó chính là sự vô tận.
Cùng với hình ảnh ẩn dụ “mặt trời”. Vì sao tác giả Viễn Phương lại dùng “mặt trời” để so sánh với hình ảnh của Bác Hồ? Bởi mặt trời chính là nguồn sống bất diệt của nhân loại, nhờ có ánh sáng của mặt trời mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng và hoạt động. Cũng như nhờ có “ánh sáng Cách mạng” mà Bác đã mang đến, dân tộc ta mới có thể thông suốt và nhìn rõ được những hướng đi đúng đắn, đưa người dân thoát khỏi ách đô hộ của bọn giặc tàn ác.
Bởi thế nên tác giả đã dùng hình ảnh mặt trời to lớn nhất và vĩ đại nhất, để thể hiện sự biết ơn và ca ngợi chính ánh hào quang của Bác đã soi sáng, dẫn đường cho cả dân tộc đi đến bến bờ thắng lợi, giành lại độc lập cho đất nước, chính Bác đã mang đến cuộc sống mới cho cả đất nước Việt Nam, chính Bác là “nguồn sống” vĩnh hằng và bất diệt trong lòng mỗi người dân nước Việt.
Để giờ đây, khi đất nước đã được sống trong những mùa xuân yên bình, thì Bác Hồ chỉ còn là “thân xác” bất động nằm lại trong lăng. Thế nhưng, linh hồn và hình ảnh của Bác thì mãi như “mặt trời” trên cao luôn dõi theo và soi rọi “ánh sáng” của sự yêu nước của niềm tin và cho những cuộc Cách mạng khác trong tương lai để muôn dân tiếp tục đưa đất nước Việt Nam đi lên, sánh vai cùng cường quốc năm châu và không phụ sự mong mỏi của Bác.
Nếu như ở hai câu thơ trên, tác giả đã dùng nghệ thuật ẩn dụ và dùng hình ảnh “mặt trời” để ví với Bác Hồ để thể hiện niềm kính trọng sâu sắc dành cho Bác. Thì đến hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn tiếp tục sử dụng điệp ngữ để thể hiện sự biết ơn và ca ngợi sự trường tồn, vĩnh hằng của Bác trong trái tim người dân từ khắp nơi đổ về thăm viếng Bác.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ “ngày ngày” được sử dụng trong câu thơ chỉ sự lặp đi lặp lại liên tục, không có hồi kết. Bởi cho đến ngày nay, khi đất nước đã hoàn toàn sống trong tự do và hạnh phúc, thì vẫn chẳng có ai quên được nỗi đau lớn nhất trong ngày muôn dân vui nhất là Bác đã vĩnh viễn ra đi vào năm 1969. Một tay Bác đã bôn ba đi khắp nơi để tìm ra chân lý Cách mạng và đường lối chiến đấu đúng đắn cho dân tộc, một tay Bác đã chỉ đạo những trận đánh lớn để quân giặc phải nể sợ trí tuệ và tài năng của người Việt Nam, cũng chính Bác trong những ngày “gần đất xa trời” vẫn không quên quan tâm đến tình hình chiến sự gây cấn của đất nước.
Thế đấy, Bác đã dành cả cuộc đời để yêu nước, yêu dân mà chẳng hề nghĩ gì đến quyền lợi của bản thân mình. Vậy mà giờ đây, những gì nhân dân Việt Nam có thể làm được cho Bác chỉ là dòng người “ngày ngày” đến lăng, mỗi người cầm trên tay một bông hoa, cứ thế hàng trăm hàng nghìn người ghép lại như kết thành một “tràng hoa” lớn dâng lên Bác, để tưởng nhớ và biết ơn cho những gì mà Người đã hy sinh cho Tổ quốc.
Tác giả đã tinh tế dùng hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” từ đoàn người khắp nơi đổ về lăng viếng Bác. Có thể thấy, từ ngày lăng Bác được khánh thành trong niềm vỡ òa nhưng thương tiếc của người dân, thì chưa ngày nào là không có người đến lăng thăm Bác. Cho dù là thế hệ ngày nay vẫn chưa được nhìn thấy Bác “bằng xương bằng thịt” như ông bà cha mẹ, nhưng những huyền thoại phi thường về Bác vẫn luôn là “ngọn đuốc sáng” soi đường cho “mầm non” tương lai.
Bên cạnh đó, tác giả còn dùng hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ số tuổi của Bác với hàm ý mỗi năm Bác còn sống như mỗi mùa xuân của đất nước Việt Nam. Đó cũng chính là sự biết ơn công lao to lớn của Bác, Người Lãnh tụ vĩ đại ấy đã dành 79 tuổi xuân của mình để cống hiến cho độc lập tự do của đất nước cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Có thể nói, khổ thơ thứ hai trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là khổ thơ cảm động nhất và thể hiện rõ sự vĩnh hằng và trường tồn của Bác Hồ trong lòng mỗi con dân Việt Nam. Ông đã dùng những từ ngữ trân trọng và tôn kính nhất kết hợp cùng những biện pháp tu từ đặc sắc để ca ngợi và thể sự biết ơn, kính trọng nhất dành cho Bác Hồ. Vậy nên, là thế hệ trẻ, chúng ta nên tiếp bước, kế thừa và phát huy những bài học và phẩm chất quý báu mà Bác đã để lại góp phần hoàn thiện bản thân và trở thành người có ích cho đất nước.