Bài văn phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong "Tức nước vỡ bờ" số 3
Ngô Tất Tố là một trong những gương mặt tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với tập tiểu thuyết "Tắt đèn", truyện kể về cuộc đời và số phận chị Dậu, một phụ nữ nông thôn nghèo đói, nạn nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến. "Tức nước vỡ bờ" là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm, thể hiện bước ngoặt tâm lý nhân vật chị Dậu, bước đầu dám vùng lên phản kháng, chống lại bọn cường hào lý trưởng. Đặc sắc nghệ thuật nằm ở tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả nhân vật với tính cách tương phản đối lập và ngôn ngữ đối thoại chân thực, đặc sắc.
Sau một đêm bị trói, bị đánh ngoài đình, anh Dậu được trả về nhà, rũ rượi như một xác chết, chưa kịp húp bát cháo cho hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà Lý trưởng lại kéo đến đòi tiền sưu. Chị Dậu bằng mọi cách van xin, lạy lục tên cai lệ đừng vội trói chồng chị đi nhưng hắn thẳng tay đánh đập, chửi bới chị. Bị đẩy vào đường cùng, chị Dậu đứng lên đánh trả tên cai lệ và bọn tay sai mạt hạng.
Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích được thể hiện ở khả năng khắc họa nhân vật đại tài của Ngô Tất Tố. Xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu, tác giả muốn khắc họa chân dung người phụ nữ Việt Nam đức hạnh, biết chịu đựng nhưng vô cùng quyết liệt, giàu sức phản kháng. Khi anh Dậu được trả về nhà, chị lật đật chạy đi nấu cháo cho chồng ăn hồi sức, "rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm", "đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không".
Tình thương chồng, thương con được thể hiện rất kín đáo, sâu sắc, không phô trương hay màu mè. Khi bị tên cai lệ và người nhà lý trưởng áp giải tiền sưu, chị rất nhẹ nhàng, cam chịu, cầu xin bằng giọng "run run", "chạy đến đỡ lấy tay hắn" khi hắn định trói anh Dậu, van xin khẩn thiết: "Cháu van ông". Chị gọi tên cai lệ là ông, xưng cháu, thể hiện sự tôn trọng với thân phận thấp hèn. Trái ngược với sự tha thiết, nhún nhường của chị, tên cai lệ thẳng tay "bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trí anh Dậu". Đến lúc này, sự thay đổi trong cách xưng hô từ "ông - cháu" sang "ông - tôi":"
Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ" đã mở ra bước ngoặt tâm lí nhân vật. Bị đánh, bị chửi, sự đức độ và hiền lành bị thách thức. Và cuối cùng, khi bị cai lệ tát vào mặt, chị Dậu "nghiến hai hàm răng", dõng dạc nói: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Con giun xéo lắm cũng quằn, chị Dậu đã vượt qua giới hạn của bản thân, sẵn sàng xưng bà, gọi mày với tên quan mạt rệp, độc ác. Xây dựng nhân vật theo thứ tự tăng cấp của diễn biến tâm lý, tác giả đã khắc họa hình tượng nhân vật chị Dậu, người phụ nữ điển hình trong xã hội xưa, hiền lành, chăm chỉ, nhún nhường nhưng luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, dám đứng lên chống trả ức hiếp, bóc lột.
Trái ngược với hình ảnh chị Dậu, tên cai lệ được tác giả miêu tả đại diện cho tầng lớp thống trị. Chất giọng "khàn khàn của người hút nhiều sái cũ", hình dáng "lẻo khoẻo", ăn nói cục súc, hành động côn đồ, chỉ biết dùng vũ lực, đánh cả đàn bà, con gái,... từng ấy chi tiết miêu tả đã khiến người đọc hình dung ra một tên tay sai mạt hạng. Có ý kiến cho rằng, tên cai lệ chính là hình tượng điển hình cho lớp quan lại phong kiến Việt Nam thời bấy giờ, rỗng tuếch, đểu cáng, tàn ác, giết hại chính đồng bào mình, bợ đỡ thực dân để được sống yên ổn. Sự thảm hại "ngã chổng quèo trên mặt đất" của tên cai lệ đã cho người đọc thấy sự đối lập giữa sức vóc của "người đàn bà lực điền", đại diện cho tầng lớp nông dân và tên nghiện gầy gò cai lệ. Khắc họa nhân vật xuất sắc không chỉ đem lại sự cuốn hút cho người đọc mà còn phản ánh hiện thực xã hội đương thời, một xã hội tối tăm, mục ruỗng, con người tàn sát lẫn nhau để được tồn tại.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện lớp lang, có cao trào, kịch tính góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Liên kết chặt chẽ giữa xung đột tình huống đốc thúc câu chuyện lên tới cao trào, giải quyết mượt mà và thỏa mãn người đọc. Tác giả mượn lời đối thoại và hành động của nhân vật, gián tiếp dẫn dắt tình huống lên tới đỉnh điểm. Vì bị đánh, bị chửi nên chị Dậu mới có tinh thần phản kháng. Vì hùng hổ xông vào đòi trói anh Dậu nên tên cai lệ và bọn tay sai Lý trưởng mới bị chị Dậu đánh trả. Tác giả để cho nhân vật tự đẩy tình huống lên cao trào và tự giải quyết mâu thuẫn bằng hành động, lời nói và tính cách cá nhân.
Một đặc sắc nghệ thuật điển hình của đoạn trích là ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật. Lấy chất liệu đời sống, khai thác giá trị thực tiễn, lời ăn tiếng nói của nhân vật góp phần định hình thể loại văn chương và ghi dấu cá tính tác giả. Ngôn ngữ thôn quê bình dị, chất phác, điển hình cho từng tuyến nhân vật. Tên cai lệ thì ngang tàng, hống hách, chị Dậu lại thiết tha, lễ độ, đồng thời quật cường, đanh thép, bà cụ hàng xóm xuất hiện với giọng điệu lo âu, cám cảnh. Việc sử dụng ngôn ngữ thuần túy tự nhiên khiến văn của Ngô Tất Tố tự có chiều sâu, tái hiện không khí làng quê đặc trưng thời bây giờ.
Đặc sắc nghệ thuật trong đoạn trích đã khẳng định tài năng của tác giả, góp phần làm nên đại thành công của tập tiểu thuyết. Khả năng xây dựng cốt truyện, khai thác nhân vật và bút pháp tài hoa đã tái hiện bức tranh hiện thực làng quê Việt Nam xưa. Đặt trong hoàn cảnh đất nước ngày ấy, tác phẩm được coi như lời kêu gọi nhân dân đứng dậy chống áp bức đấu tranh, giành lại nhân quyền cho chính bản thân mình.
"Tức nước vỡ bờ" là đoạn trích đặc sắc trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, cùng tìm hiểu chi tiết về đoạn trích, bên cạnh bài Phân tích nghệ thuật đoạn trích Tức nước vỡ bờ, các em có thể tìm đọc thêm: Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Chứng minh người nông dân vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp qua Lão hạc và Tức nước vỡ bờ, Bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ, tay sai thực dân phong kiến trong Tức nước vỡ bờ.