Bài văn phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du số 6
Trong nền văn học Việt Nam, "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du xuất hiện như một khúc ca đầy thương xót về thân phận đầy oan khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điều này đã được thể hiện qua quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều. Tuy nhiên, trước khi đặt bước chân vào quãng đời tủi nhục, truân chuyên đó, nàng từng được sống một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc bên cạnh những người thân trong gia đình.
Trích đoạn "Cảnh ngày xuân" nằm ở phần đầu "Truyện Kiều" miêu tả cảnh chị em Kiều đi chơi xuân trong tiết Thanh minh là minh chứng tiêu biểu cho điều này. Thiên nhiên vốn là mảnh đất quen thuộc mà những người nghệ sĩ có thể tập trung bút lực để khai phá và mỗi một nhà thơ lại có những cách miêu tả riêng. Đối với Nguyễn Du, bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân được miêu tả gắn bó với không gian lễ hội. Trước hết, tác giả đã tái hiện không gian và thời gian một cách sinh động:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Tiết trời lúc này đã vào tháng ba, những cánh én bay lượn trên bầu trời không chỉ là hình ảnh tả thực gợi lên khung cảnh quen thuộc mang đặc trưng của mùa xuân mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự trôi chảy ngừng nghỉ của thời gian: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa". Thời gian cứ thế bước đi âm thầm nhưng vội vã, thoáng chốc đã đến tháng ba của mùa xuân - khi mà những ánh "thiều quang" - những tia nắng xuân lấp lánh, tươi đẹp đua nhau chiếu rọi lên cảnh vật. Trong khung cảnh đó, hai gam màu xanh và trắng xuất hiện:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Không gian mênh mông tràn đầy sức sống và sắc xuân đã được gợi tả thành công qua màu sắc xanh tươi mơn mởn của cỏ non. Tác giả còn vận dụng khéo léo và tài tình bút pháp chấm phá khi điểm xuyết sắc trắng một vài bông hoa lê, sắc xanh và trắng hòa phối với nhau làm cho bức tranh thiên thêm thanh khiết và nhẹ nhàng. Như vậy, chỉ với bốn câu thơ, nhà thơ đã phác họa thành công "cảnh ngày xuân" tràn trề sức sống nhưng vẫn trang nhã, tinh khôi và trong trẻo say đắm lòng người.
Ở tám câu thơ tiếp theo của trích đoạn, đại thi hào Nguyễn Du đã miêu tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Trước hết, những nét sơ lược về ngày lễ đã được phác họa thông qua thời điểm: "trong tiết tháng ba" với hai phần chính "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh". Và rồi không khí lễ hội mang đậm giá trị truyền thống hiện lên với sự sinh động và đông vui, tấp nập:
"Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm"
Không gian lễ hội có sự tham gia của "yến anh", "chị em", "tài tử", "giai nhân" cùng những hoạt động phong phú, đa dạng như "sắm sửa", "dập dìu" đã làm nổi bật sự náo nhiệt cùng tâm trạng náo nức của con người. Tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ trong sự phối kết hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn.
Đó là biện pháp ẩn dụ qua "nô nức yến anh" - hình ảnh gợi lên từng đoàn người, hay từng cặp uyên ương sánh bước bên nhau. Đó là phép so sánh "Ngựa xe như nước áo quần như nêm" để miêu tả dòng người đi trẩy hội tấp nập và đông vui. Bên cạnh đó, tác giả còn miêu tả không gian tĩnh lặng của phần "lễ":
"Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
Sự linh thiêng khiến thời gian như tĩnh tại và chùng xuống. Hành động tưởng nhớ đến những người đã khuất đã gợi tả thành công lòng biết ơn đối với quá khứ cùng truyền thống đạo lí "uống nước nhớ nguồn" tốt đẹp của dân tộc. Cuối cùng, tác giả Nguyễn Du miêu tả cảnh hai chị em Thúy Kiều trở về khi hội tan:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Cảnh lễ hội kết thúc khi bầu trời đã xế chiều, khung cảnh ngập ánh hoàng hôn khi mặt trời "đã ngả về tây". Bức tranh thiên nhiên vẫn mang sắc xuân quen thuộc qua những hình ảnh nắng đã nhạt phai, khe nước nhỏ cùng chiếc cầu nhỏ bắc ngang. Dòng thời gian và nhịp thơ không còn rộn ràng mà chững lại, và khoan thai khi miêu tả mặt trời từ từ lặn xuống ở phía tây, con người ra về cùng bước chân thơ thẩn và dòng nước chậm rãi uốn quanh.
Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ láy như "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", nao nao" để miêu tả cảnh vật, đồng thời cũng là sự vận dụng bút pháp "tả cảnh ngụ tình" vô cùng tinh tế và khéo léo; vừa gợi lên sự tĩnh lặng, buồn vắng của cảnh vật, vừa diễn tả thành công tâm trạng nuối tiếc, bâng khuâng, lưu luyến của lòng người, đặc biệt là hình ảnh "dòng nước uốn quanh" trong sự "nao nao". Cảnh vật trong đoạn thơ vì thế cũng phảng phất một nỗi buồn và mang nặng tâm trạng của con người.
Như vậy, thông qua trích đoạn "Cảnh ngày xuân", tác giả Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn trề sức sống cũng như không gian lễ hội tấp nập, đông vui mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này đã được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các bút pháp quen thuộc mang đặc trưng của nền văn học trung đại như bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình,....