Bài văn phân tích đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài số 5
Tô Hoài là nhà văn lón trong văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng trên đất nước. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có và cách sử dụng đắc địa, tài ba.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài được viết năm 1953, in trong tập Truyện Tây Bắc, cho đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng vẫn nguyên vẹn giá trị và sức thu hút với người đọc bởi những đặc sắc nghệ thuật của nó.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ đem lại cho người đọc giá trị thẩm mĩ về nội dung mà đặc sắc hơn là nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Với lối kể truyện lôi cuốn, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế; với cách dựng cảnh sinh động, gợi cảm; vối ngôn ngữ giàu chất thơ, chất tạo hình, Tô Hoài đã đem đên cho người đọc những trang văn hấp dẫn và vốn hiểu biết văn hoá sâu rộng về con người và đòi sông các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Trong truyện cái đầu tiên phải kể đến đó là thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mị, nhà văn sử dụng thủ pháp tương phản, miêu tả những mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận; giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách của nhân vật đạt tới mức biện chứng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hai tình huống: Trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, hạnh phúc bỗng chốc thành người bất hạnh, thân nô lệ, mất tự do, phải sống với người không yêu, làm việc quần quật suốt ngày, bị áp chế về tinh thần, bị đánh đập, ngược đãi. Tâm hồn, tinh thần Mị bị tê liệt, cam chịu. Mị sống như cái xác không hồn, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, bị giam trong căn buồng u tối như địa ngục trần gian… tưởng như không bao giờ thoát ra được.
Đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao, tiếng sáo gọi bạn và hơi men đã làm thức tỉnh tâm hồn yêu sống và khát vọng tự do của Mị. Mị muốn đi chơi xuân nhưng lần ấy, Mị đã bị A sử trói đứng vào cột nhà trong căn buồng u tối, giá lạnh. Vòng dây tàn bạo xiết chặt thể xác nhưng tinh thần Mị vẫn cứ mộng du theo tiếng sáo. Hơi men và tiếng sáo nâng đỡ tâm hồn Mị… Song Mị lại bị rơi vào tình trạng bi đát, vô vọng trầm trọng hơn.
Nếu ở đêm tình mùa xuân Mị chưa thực hiện được khát vọng tự do của mình thì phải đến đêm mùa đông năm sau, Mị mới có hành động đột biến, quyết liệt để thay đổi số phận. Mị cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cho cả hai người khỏi ách kìm kẹp, khổ đau, mở ra một trang đời mới. Do đó, số phận và tâm lí của Mị được nhà văn phác hoạ như một “hình sin”, mỗi khi “đồ thị” đi xuống là để tạo sức nén cho nhân vật lần sau vút cao hơn và giành chiến thắng.
A Phủ cũng được nhà văn thể hiện sống động và chân thực vối những nét tính cách đặc trưng của người dân lao động miền núi. Nếu Mị là nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại được xây dựng là nhân vật hành động. Hành động của A Phủ thể hiện sự táo bạo, gan góc, tự do, dũng mãnh nhưng cũng rất cam chịu và hiền lành. A Phủ bị áp bức tàn bạo nhưng trong anh luôn tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng mãnh liệt, dữ dội. Đó là những phẩm chất tốt để sau này họ có thể tự đứng lên giải phóng đời mình.
Nghệ thuật xây dựng tính cách của Mị cũng như A Phủ được nhà văn thể hiện rất độc đáo, mang phẩm chất tiêu biểu của người Mông: âm thầm mà mãnh liệt; mộc mạc, đơn sơ mà dữ dội khôn lường. Và trên hết là lối sống phóng khoáng, tự do, hồn nhiên đầy bản lĩnh của họ. Những phẩm chất này khiến người Mông mang một sinh lực dồi dào, họ có đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức, đè nén nào.
Để tạo ra một câu truyện hay, thì không thể thiếu nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn. Mở đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại là một mảnh đời, một số phận hiện thực. Cách kể đan xen giữa quá khứ và hiện tại; giữa kể và tả. Đặc biệt là cách dựng cảnh, tạo không khí rất đặc sắc như cảnh A sử hành hạ Mị trong đêm tình mùa xuân; cảnh A Phủ đánh A Sử; cảnh xử kiện A Phủ…
Cách mà nhà văn miêu tả cảnh trí, nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán cũng thật độc đáo, mang phong vi đặc trưng của vùng Tây Bắc như tục cướp vợ, tục lễ cúng trình ma, tục xử kiện, ốp đồng,… chứng tỏ nhà văn rất am hiểu về một vùng đất mà nhà văn gắn bó, yêu mến. Ông áp dụng linh hoạt vốn ngôn ngữ phong phú, giàu tính tao hình, giàu chất thơ và sáng tạo.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ra đời đã hơn nửa thế kỉ, nhưng cho đến nay nó vẫn nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ bạn đọc trong nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật; sự tinh tế trong diễn tả đời sống nội tâm và trong quan sát những nét lạ về phong tục tập quán, cá tính người Mông cùng lối trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế giàu chất thơ và đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm cung cấp cho người đọc nhiều tri thức lạ về vùng cao Tây Bắc trong quá khứ và hiện tại.