Bài văn đóng vai người cháu kể lại câu chuyện trong bài thơ "Bếp lửa" số 5
Nga 1963.
Ngoài trời, tuyết rơi trắng xóa. Đường phố vắng tanh, không một bóng người. Thỉnh thoảng chỉ nghe vang vọng đâu đây tiếng “cờ rộp, cờ rộp” của chiếc xe ngựa chạy vội trong đêm. Mọi nhà đều đã thắp đèn đi nghỉ. Chỉ còn le lói vài ánh đèn vàng mờ rồi bỗng vụt tắt. Tôi vẫn chưa ngủ. Cái buốt giá của mùa đông thấu tận trong tâm can khiến tôi bất giác nhớ lại những ngày tháng ấm áp của tuổi thơ. Bên chiếc lò sưởi bập bùng ánh lửa, tôi chợt nhớ đến bà, nhớ đến những hồi ức có bà ở bên, bên bếp lửa nồng đượm tình yêu thương.
Lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại cái năm tôi lên bốn tuổi. Thời kì này, cái đói, cái thiếu thốn hoành hành khắp nơi. Ngân khố nhà nước cũng chỉ vẻn vẹn có vài đồng. Người Việt Nam quen gọi cái sự kiện kinh hoàng này là “nạn đói năm 45”. Cái đói triền miên dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Số người chết vì đói gấp rất nhiều lần số người chết vì bệnh tật. Những người còn lại sống vật vờ như những bóng ma trong đêm. Bố tôi đi đánh xe ngựa với con ngựa gầy còm, ốm yếu, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi không phải là vòm trời cổ tích cao rộng và nhuốm màu lãng mạn của những phép màu kì diệu, mà đúng hơn khói bếp đã bao trùm ấn tượng suốt khung trời tuổi thơ. Tôi chợt thấy sống mũi của tôi xộc lên một thứ gì đó cay nồng khiến cho hàng lệ bất giác tuôn rơi. Dư vị một thời thơ bé vẫn còn ám ảnh đâu đây, nghĩ lại vẫn thấy xót thương trong hồi ức về bà.
Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, ba mẹ tôi phải đi ra chinh chiến ngoài mặt trận. Họ gửi tôi cho bà chăm sóc. Suốt thời gian đó tôi cùng bà nhóm lửa. Tám năm chưa phải là dài so với một đời người nhưng đối với tôi, nó như kéo dài đến triền miên, vô tận bởi tám năm ấy chỉ hai bà cháu tôi nương tựa vào nhau. Bà thường ôm tôi vào lòng, bên chiếc bếp bập bùng ngọn lửa, bà kể cho tôi những câu chuyện hồi bà còn ở Huế. Vào những ngày hè rực nắng, tiếng chim tu hú kêu tha thiết nhưng nghe như khắc khoải, giục giã cả một khoảng trời. Mỗi khi nghe tu hú kêu, tôi thường đứng lặng hàng giờ, tôi nói với cánh chim ngoài đồng kia: “Tu hú ơi! Sao mày không đến ở cùng bà, sao cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa kia vậy?”. Ba mẹ tôi đi rồi nên việc chăm sóc, dạy dỗ tôi đều nhờ cả vào đôi bàn tay bà. Bà bảo tôi những điều hay lẽ phải, bà dạy tôi những bài học bổ ích. Mỗi việc làm của bà đều thấm đượm tình yêu thương. Để có thể học ở Trường Đại học Tổng hợp KF như bây giờ có lẽ cũng đều nhờ công sức bà dạy dỗ cho tôi. Nghĩ vậy lòng tôi lại dâng lên lòng nhiệt huyết, tôi sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt sao cho xứng đáng với những gì bà mong đợi.
Chiếc lò sưởi bỗng cháy lên dữ dội. Cái ngọn lửa đó đưa tôi về cái năm giặc đốt phá làng cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tháng đi tản cư, cả dân làng trở về lầm lụi. Hàng xóm bốn bên giúp hai bà cháu tôi dựng lại túp lều tranh nhỏ để có chỗ che nắng che mưa. Gian khổ là thế, vậy mà bà vẫn vững lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của bà “Mày có viết thư cho ba mẹ chớ có kể này kể nọ, cứ bảo là nhà vẫn được bình yên”. Hồi đó tôi chưa đủ chín chắn để có thể hiểu được câu nói của bà. Tôi chỉ thắc mắc tại sao bà lại nói dối trong khi bà luôn dạy tôi phải luôn trung thực. Sau này tôi mới hiểu và cảm thấy xúc động vô cùng khi biết đó chính là hành động hy sinh âm thầm của bà. Bà đã nhận về mình tất cả những mất mát, khổ đau để cho ba mẹ tôi có thể yên tâm đánh giặc cứu nước. Tấm lòng của bà thật bao la, độ lượng làm sao!
Cơ hàn rồi giặc giã… lại vẫn chỉ có hai bà cháu tôi sớm tối. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng biết làm thế nào cho bà đỡ khổ. Rồi sớm rồi chiều, ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa tình thương bà dành cho tôi, của niềm tin vào một ngày chiến thắng, các con sẽ trở về đoàn tụ. Suốt một đời gian nan, vất vả, bà tôi tần tảo chăm sóc cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc phơ luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm cả lòng tôi, khơi gợi những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.
Giờ đây tôi đã trưởng thành, được Tổ Quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Tôi đã được khám phá biết bao điều mới mẻ nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ở quê nhà. Bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời tôi đã được nhen lên bởi ngọn lửa ấy. “Bà ơi, giờ đây bà đã đi xa, cháu chẳng bao giờ có thể gặp lại bà được nữa, nhưng hình ảnh bà sẽ mãi như ngọn lửa bà nhen, hừng hực cháy trong trái tim cháu để cháu có thêm động lực, để bước tiếp trên con đường tri thức”
Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tôi đã mơ một giấc mơ thật đẹp. Tôi lại trở thành cậu bé năm ấy và bà hiện lên thật đẹp, hiền từ và nhân hậu như bà tiên trong câu chuyện cổ tích…