Bài văn cảm nhận thơ "Những cánh buồm" trong Ngữ văn 6 - SGK Cánh diều số 5
Nhà thơ Hoàng Trung Thông viết bài thơ Những cánh buồm (năm 1962) và in trong tập thơ cùng tên năm 1964. Bài thơ thể hiện niềm mơ ước của tuổi thơ được đi đến những chân trời bao la phía trước. Từ niềm mơ ước ấy của con, tác giả đã giãi bày nỗi niềm của chính mình về những khát khao vẫn còn dang dở, muốn chuyển tiếp cho thế hệ tương lai thực hiện sau này. Chính nhờ ý tứ trong sáng, giản dị mà đằm sâu triết lí ấy, Những cánh buồm vẫn khắc khoải không nguôi trong mỗi hồn người.
Mở đầu bài thơ là không gian biển xanh, cát trắng và ánh mặt trời rực rỡ trên cao. Vũ trụ bừng sáng thênh thang, lòng người cũng vui tươi hớn hở. Cuộc đi bộ đồng hành trên bãi cát mịn sau đêm mưa rả rích giữa hai cha con hay đó là hành trình trong cuộc sống này của tất cả chúng ta ? Một cha, một con cứ thế bước đi “dưới ánh mai hồng” tuyệt đẹp. Ngộ nghĩnh trong nghệ thuật miêu tả, Hoàng Trung Thông đã viết những câu thơ đầu tiên thật tự nhiên:
Hai cha con dắt đi trên cát
Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh
Hai cái bóng, một “dài lênh khênh” của người cha đã trưởng thành, một của đứa con thơ bụ bẫm nên “tròn chắc nịch” giữa mênh mông bãi cát rộng dài của biển. Hình ảnh thơ đẹp quá, đẹp đến say lòng cùng với một giọng thơ vui tươi, trong sáng. Cứ thế, hai cha con bước đi trên cát ngắm nhìn biển khơi cho đến khi đứa con yêu lắc tay cha mình khẽ hỏi:
Cuộc chuyện trò thân mật giữa hai cha con bắt đầu từ câu hỏi ngây thơ mà đầy háo hức và thông minh của đứa trẻ khiến cho người cha không thể không trả lời. Lòng con đang sung sướng lẽ nào cha lại làm mất đi niềm vui thơ dại ấy? Lúc này, hình ảnh cánh buồm xuất hiện để người cha khơi gợi niềm mơ ước cho con:
Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa
Sẽ có cây, có cửa có nhà...
Câu trả lời của người cha cởi mở, chân thành và trung thực đến vô cùng. Trước con, cha không giấu điều gì về những hạn chế bản thân và của thế hệ mình. Cha biết, phía cuối chân trời kia cũng có mọi thứ như ở trên đất liền này, vẫn là của quê hương của những xứ sở đẹp tươi, nhưng là những nơi cha chưa bao giờ đi đến. Giọng thơ đến đây bắt đầu chuyển sang trầm tư, suy niệm như chính nỗi niềm người cha vẫn còn nhiều khắc khoải, ước mơ. Hình tượng cánh buồm xuất hiện lúc này không chỉ là cánh buồm đang căng gió trên những con thuyền ngoài biển xa mà đã mang một ý nghĩa khác, một ẩn dụ cho khát vọng đi đến những chân trời mới.
Trước câu trả lời chân thành nhưng cũng đầy khơi gợi của người cha, đứa con lại tò mò nêu câu hỏi tiếp, nhưng đó là câu hỏi không dễ trả lời. Đứa con ngây thơ bao nhiêu, lòng người cha càng khắc khoải bấy nhiêu. Dường như trước những câu hỏi của đứa con thơ dại, người cha đã gặp lại mơ ước của chính mình hiện hữu sáng nay. Có lẽ quá khứ, hiện tại và cả tương lai đang cùng xuất hiện mà hình ảnh trung tâm là cánh buồm đang vẫy gọi ngoài khơi xa. Cánh buồm hóa thành nỗi niềm khát khao của con người về một chân trời tương lai phía trước:
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời
Con lại trỏ cánh buồm nói khẽ:
Cha mượn cho con buồm trắng nhé
Để con đi...
Bốn câu thơ kết bài là lời biểu cảm sâu lắng, thiết tha của tác giả qua tâm trạng người cha cùng con đi bên biển xanh cát trắng. Lời con hỏi hòa âm cùng tiếng sóng khơi xa, hay đó cũng chính là tiếng lòng cha một thời bé bỏng? Lời thơ thanh thoát, cảm xúc thơ lan tỏa, tâm tình thơ chân thật đến vô cùng khiến cho tâm trạng người đọc cũng bồi hồi, xao xuyến và tràn đầy nỗi niềm ưu tư, khắc khoải. Thơ hay thường đâu chỉ của riêng tâm tình nhà thơ, mà nó còn lắng đọng trong cảm xúc mọi người. Khổ thơ kết bài là một trường hợp như thế:
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong những ước mơ con.
Cánh buồm trở thành biểu tượng cho niềm ước mơ và khát vọng của con người trong cuộc sống. Đọc Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông, qua câu chuyện tâm tình của hai cha con bên biển, người đọc chợt bắt gặp niềm thiết tha mong ước của chính mình một thời thơ dại xa xưa và ngay cả khi đang làm cha, làm mẹ trong đời. Cánh buồm nhờ thế luôn ám ảnh tâm hồn, khắc khoải trái tim mỗi chúng ta trên hành trình hướng đến tương lai.