Bài văn cảm nhận quá trình thức tỉnh của Mị liên hệ với Chí Phèo số 3
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông luôn thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, đặc biệt về những phong tục và sinh hoạt đời thường của những vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. Ông thành công với những tác phẩm viết về loài vật và đặc biệt ấn tượng với những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người Tây Bắc. Nổi bật là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – bức tranh chân thực về cuộc sống dân nghèo miền núi và sức sống tiềm tàng của họ.
Nam Cao là cây bút tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng. Ông luôn ý thức sâu sắc về quan niệm nghệ thuật của mình, đồng thời yêu cầu nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, chạm thấu vào nỗi đau của con người để cất tiếng kêu giành lại hạnh phúc. Chính vì thế, nhà văn phê phán khá toàn diện tư tưởng “nghệ thuật là ánh trăng lừa dối”, mang tính thoát ly với cuộc đời. Để từ đó, ông mang lại cho kho tàng văn học Việt Nam thiên truyện Chí Phèo, vượt qua bao thời gian vẫn giữ nguyên giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, ta thấy được rằng cả hai tác giả đều hướng ngòi bút của mình đến cuộc sống khốn khổ của những người nông dân Việt Nam bấy giờ. Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác hình ảnh con quỷ dữ Chí Phèo của làng Vũ Đại bằng tất cả sự ghê sợ về nhân hình lẫn nhân tính thì Tô Hoài lại ngược về vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm hình ảnh người con gái xinh đẹp chịu thương, chịu khó. Đọc hai tác phẩm trên hẳn ta không thể quên được hình ảnh của hai nhân vật Mị và Chí Phèo, nhất là sự hồi sinh trỗi dậy trong họ.
Miêu tả nhân vật Mị, Tô Hoài không khiêm tốn lời lẽ để ca ngợi về một cô gái tài sắc chẳng kém cạnh ai. Người con gái vùng núi Tây Bắc vốn xinh đẹp, không những vậy còn có tài thổi sáo nên không ít chàng trai trong và ngoài làng luôn khao khát có được nàng. Đặc biệt, khác với số đông Mị là người yêu tự do và có lòng tự trọng, người con gái này không ngừng khát vọng vươn lên trong cuộc sống bằng cách lao động. Không những có tâm hồn lãng mạn mà bên trong Mị còn toát lên vẻ đẹp của lòng hiếu thảo và bi kịch của cuộc đời người con gái này cũng bắt đầu từ đó. Ba tiếng “dâu gạt nợ” chính là cách báo hiếu duy nhất của Mị khi muốn trả dứt món nợ của gia đình. Để từ đó, Mị trở thành nạn nhân của nạn nhân của xã hội phong kiến đầy bóc lột và là nạn nhân của tập tục hôn nhân cổ hủ bấy giờ.
Khi làm dâu nhà thống Lý, Mị chịu những đau khổ về thể xác lẫn tinh thần. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, phải làm việc suốt ngày đêm và bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Việc so sánh nhân vật Mị và Chi Phèo đã chân thực hóa, hiện thức hóa cuộc sống lầm than và nhiều đau khổ của con người trong chế độ cũ. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị đang dần bị vật hóa. Bên cạnh đó, Mị còn bị chính chồng của mình đánh đập và hành hạ một cách dã man đầy vô lý.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, ta mới thấy Mị vốn đã tủi nhục rồi nhưng qua đó ta mới càng thấy rõ hơn sự khốn nạn của cuộc đời Chí. Sự ra đời của hắn vốn đã là một sự bất hạnh, với hình ảnh một đứa bé bị bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ. Nam Cao dường như để nhân vật của mình tự lớn lên và trưởng thành giữa tình thương của những con người làng Vũ Đại, đó như một lời khẳng định rằng Chí Phèo vốn là một con người có bản chất hiền lành và có suy nghĩ. Để rồi sau đó, nhà văn mới xoáy ngòi bút của mình vào sự tha hóa cũng như sự khốn cùng của cuộc đời nhân vật một cách tàn nhẫn nhất.
Nam Cao không ngại cho nhân vật của mình trở thành hình tượng một con quỷ dữ, khi mở đầu thiên truyện là hình ảnh “hắn vừa đi vừa chửi…” và tiếp đó là không ít những hình ảnh rạch mặt ăn vạ, vào ra tù không ít lần. Chính nhà tù thực dân đầy oan trái đã lấy đi ở Chí sự hiền lành, lương thiện và trả lại một kẻ đã mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Sự sắc lạnh trong giọng kể của nhà văn chính là sự tường thuật chân thật về một xã hội phong kiến thối nát bấy giờ, nơi mà chỉ có sự bóc lột và đẩy những con người lương thiện đến tận cùng của sự thống khổ. Việc phân tích tâm trạng và diễn biến tâm lý của Chí giúp làm bật lên sự so sánh nhận vật Mị và Chí Phèo.
Sự hồi sinh của nhân vật thông qua tình huống truyện độc đáo.Khát vọng sống mãnh liệt của Mị qua tâm trạng và hành động trong đêm tình mùa xuân. Hiện thực Mị đang sống là một hiện thực tối tăm, ngột ngạt khiến cô trở thành cái bóng lầm lũi, sống mà như chết. Nhưng một lần nữa quá khứ gọi tìm đến khiến cô gái này rạo rực, náo nức với niềm hân hoan sống và khát vọng tự do. Chất xúc tác khiến Mị sống trở lại đó là tiếng sáo, là chính hơi nồng của rượu và cả chất tình của mùa xuân, “tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường…”
Nhà văn đã dùng từ láy để miêu tả âm thanh tiếng sáo một cách đầy gọi mời, nó khiến Mị không thể ngồi yên với quá khứ mà đánh thức sự thèm muốn đi chơi xuân trong cô. Mị đã có những hành động táo bạo “Mị không nói, Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng… Mị quấn lại tóc, Mị với lấy cái váy hoa, Mị muốn đi chơi”. Những suy nghĩ và hành động dồn dập ấy đã cho thấy Mị không còn sợ hãi đối với hiện tại, trong đầu cô bây giờ chỉ còn rập rờn bởi âm thanh tiếng sáo và sự khát khao sống. Tâm trạng của Chí Phèo thay đổi theo từng đợt tâm lý đã phản ánh rõ khát vọng sống của y, đồng thời cũng giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo.
Sự trỗi dậy của Mị một lần nữa được nhấn mạnh khi cô bắt gặp hình ảnh A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Tình yêu thương đồng loại trong Mị trỗi dậy bắt nguồn từ sự đồng cảm và thương xót cho chính cuộc đời mình. Nhà văn đã miêu tả hàng loạt hành động Mị cứu A Phủ từ nhẹ nhàng, cẩn trọng với câu thúc giục “đi ngay” để A Phủ có thể chạy đi và sống. Sau đó, đỉnh điểm của sự trỗi dậy khát vọng sống trọng Mị đó là tiếng nói trong sự phức tạp đầy sợ hãi của tâm lí “A Phủ cho tôi đi với…Ở đây thì chết mất”
Từ sự rung cảm trước tiếng sáo của đêm tình mùa xuân đến liều mình cắt dây trói cho A Phủ đã cho thấy Mị đã can đảm tự giải thoát cuộc đời mình khỏi sự cường quyền. Bước chân của Mị đã đạp đổ sự áp bức của chế độ bấy giờ và thể hiện sức sống tiềm tàng của bản thân. Tô Hoài đã ca ngợi vẻ đẹp phụ nữ Tây Bắc, đồng thời khẳng định khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của con người dù trong tận cùng của bế tắc. Sự tàn khốc của xã hội đã vùi dập một con người, thế nhưng chỉ cần những tác động nhỏ của tình người thì bước chân của con quỷ dữ đã kịp dừng lại, đánh dấu sự trở lại của một kiếp người.“Chưa bao giờ hắn tỉnh. Và chưa bao giờ hắn tỉnh táo để biết hắn có mặt trên đời này”.
Hai câu văn liên tiếp tưởng chừng như mang một ý nghĩa nhưng lại mở ra một bước ngoặt về những “lần đầu tiên” của Chí từ ngày hắn tha hóa. Đây không chỉ là sự thức tỉnh của thể xác mà còn là sự thức tỉnh của tâm hồn. Lần đầu tiên hắn cảm nhận được hơi thở của cuộc sống và mông lung mơ về những ước mơ trong quá khứ “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ”. Chi tiết này như nút thắt của thiên truyện và cũng chính là nút thắt của cuộc đời Chí, sự tự nhận thức và trỗi dậy của nhân tính đã khiến hắn một lần nữa được sống và tỉnh táo nhìn nhận về cuộc đời chính mình.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, nếu như sự trỗi dậy của Mị xuất phát từ sự hoài niệm về quá khứ tươi đẹp thì sự trỗi dậy của Chí là được đánh thức nhờ vào hơi ấm từ bát cháo hành của Thị Nở. Bát cháo hành đại diện cho tình người – điều mà suốt cuộc đời này tưởng chừng như hắn không bao giờ có được nữa. Sự chăm sóc từ đôi bàn tay người phụ nữ thật mới mẻ và ấm áp đối với hắn để từ đó hắn tìm đường trở về với lương thiện. “Hắn thấy mắt mình ươn ướt” là hình ảnh đánh dấu sự trỗi dậy của con người trong Chí. Nam Cao gọi nước mắt là hạt châu của con người, nó cứu lấy, nó gột rửa mọi tội lỗi và giữ con người ở lại phần trong sáng của lương tâm. Quá trình tự ý thức lên đến đỉnh điểm khi “nghĩ đến rượu hắn hơi rùng mình”. Bởi cái hắn thèm giờ đây không phải là mùi cay nồng của rượu mà là hương vị của sự lương thiện “Hắn thèm lương thiện”.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, người đọc mới cảm nhận sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo. Qua đó. tác giả đã khái quát được bộ mặt xã hội phong kiến tàn bạo. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và sự trổi dậy tìm kiếm sự sống của những con người cùng khổ. Khác với những nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao và Tô Hoài không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo của người nông dân mặc dù đó là thực tế vô cùng phổ biến. Ông yêu thương nhân vật bằng cách nêu cao giá trị hiện thực qua những bi kịch cuộc đời của nhân vật. Để từ đó khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, người đọc mới thấu rõ nỗi đau đòi quyền sống, quyền làm người và góp tiếng nói tố cáo xã hội bấy giờ.
Nếu không phải là một tấm lòng nhân đạo nhân đạo và tài năng xuất chúng thì cả hai nhà văn đã không khiến người đọc rung cảm đến như vậy khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo. Mỗi nhà văn đều có cách sáng tạo riêng nhưng khi viết về người nông dân, họ luôn tập trung bút lực của mình vào vẻ đẹp tiềm tàng của nhân vật.