Bài tham khảo số 9
Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào đầu. Trước khi ra đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc. Vào thời binh đao loạn lạc này, mẹ chỉ mong chàng giữ gìn thân mình, phải toan tính kĩ rồi hãy làm, gặp khó nên lui. Tôi rót chén rượu đầy cho tiễn chồng mà trong lòng rối bời, não nề khi nghĩ đến sự khó nhọc, những gian nguy mà chàng sắp gặp phải. Tôi chẳng dám mong đem được ấn phong hầu, chẳng cần chàng” mặc áo gấm trở về quê cũ”. Tôi chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ. Lúc bấy giờ, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng. Sau khi xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản.
Thời gian cứ trôi đi, chẳng đợi chờ ai và chưa bao giờ cảm thương cho ai bao giờ. Khoảng nửa năm sau khi Trương lang tòng quân xa nhà, vì thương con quá mức, một phần vì tuổi già sức yếu, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng. Biết mẹ già không vững được bao lâu nữa, tôi vô cùng thương xót, ngày đêm lễ bái thần phật, chăm chút thuốc men, luôn an ủi và động viên mẹ. Nhưng vận trời khó tránh, sức cùng lực kiệt, bà đã giã từ cuộc sống. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà còn gửi lời tha thiết mong nhớ con và cảm ơn tôi trong những ngày qua đã làm tốt bổn phận của mình. Tôi vô cùng đau đớn tột cùng, vừa thương, vừa xót. Sau đó, tôi hết sức lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Từ khi ấy, tôi đã hứa với lòng: phải cố gắng chăm sóc, nuôi dạy con thơ, luôn trọn dành tình yêu của mình cho chồng nơi xa xôi. Cho đến tận năm sau, bọn giặc đầu hàng rút quân khỏi bờ cõi đất nước, cuộc sống nhân dân lại được yên bình, chàng cũng được trở về quê cũ.
Lúc bấy giờ, Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con đến viếng mộ mẹ. Đến trưa, lúc về từ mộ mẹ trở về, chẳng hiểu vì cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đến tôi mà la um lên, quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi thậm tệ. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng, vội đến can ngăn, giãi bày, chàng cũng không nghe. Tôi hết sức buồn tủi cho chính mình. Chẳng biết phải làm thế nào, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.
Chàng càng lúc càng nóng, trút hết đòn roi lên thiếp, rồi đuổi tôi đi. Đất trời cao rộng nhưng tôi biết đi đâu. Lại mang tiếng thất tiết phụ chồng, nỗi oan tày trời này sao gột rửa được. Nước mắt chảy cạn mà lòng chàng vẫn còn cố chấp. Tình nghĩa bao năm giờ vơi cạn gần hết. Xót con còn bé bỏng, lại thêm thân mình phải chịu tiếng nhuốc nhơ, tôi quyết quyên sinh để chứng minh mình trong sạch. Bất đắc dĩ, thiếp đành đoạn tuyệt tình nghĩa vợ chồng với chàng, tắm gội chay sạch, tiện thiếp chạy ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”. Nói xong, tôi gieo mình xuống sông sâu, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con.
Nào ngờ, Linh Phi động lòng đã cứu vớt tôi. Khi tỉnh lại, tôi đã thấy mình nằm trong “cung cấm đền dao” của Người rồi. Tuy sống sung sướng, nhàn hạ chốn “làng mây cung nước” nhưng nỗi nhớ thương gia đình da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp. Linh Phi cũng an ủi và cảm thông khiến lòng tôi phần nào bớt đau khổ.
Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc ở gác Triêu Dương, tôi ngạc nhiên vì người đàn ông chính là Phan Lang, người cùng làng với tôi ở Nam Xương. Khi mới gặp lại, có lẽ ông ấy không nhận ra tôi, nhưng sau khi nghe tôi giãi bày, ông Phan khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng cho chàng Trương Sinh và dặn Phan nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa với tôi thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.
Đứng ở giữa dòng, tôi ngôi trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi sẽ dừng chân ở chốn làn mây cung nước này, mãi mãi chôn vùi cuộc đời ở nơi đây, không trở về trần gian nữa vì tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.