Bài tham khảo số 8
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác ngoài việc là một thầy thuốc nổi tiếng với tác phẩm Hải Thượng y tông tâm lĩnh, thì bản thân ông cũng là một người có tài văn chương, với những đóng góp đáng ghi nhận trong nền văn học Việt Nam. Một trong những cuốn nổi tiếng nhất trong bộ sách trên của ông đó là Thượng kinh ký sự. Ở đó ta sẽ có cơ hội được nhìn lại lịch sử Việt Nam thế kỷ 18, một thời kỳ mà ở đó có sự phân tranh gay gắt giữa vua Lê và chúa Trịnh. Người ta ví rằng một triều đình có hai hoàng cung cùng song song tồn tại, điều đó đã đẩy cuộc sống nhân dân vào cảnh khốn cùng. Ta sẽ được tìm hiểu về một trong hai hoàng cung quyền uy, xa hoa tột bậc đó, chính là phủ chúa Trịnh qua lời của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Trấn Hải Dương (Hưng Yên), quê mẹ ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa là một nhà văn tài hoa. Tác phẩm của ông chỉ có một bộ duy nhất là Hải Thượng y tông tâm lĩnh, rất đồ sộ, là tâm huyết của cả cuộc đời ông viết trong gần 40 năm trời bền bỉ.
Thượng kinh ký sự là quyển vĩ của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, viết nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, cuốn sách chính là kết quả của chuyến đi này.
Bằng những quan sát rất tinh tế của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện một cách rất sinh động bức tranh hiện thực nơi phủ chúa Trịnh. Ông tự đặt mình vào vị trí của một vi thầy thuốc nhà quê, một người dân lao động lần đầu tiên được bước chân vào phủ Chúa, để diện kiến bề trên, để thực sự thấy được cái cuộc sống xa hoa tột độ của giai cấp thống trị thời bấy giờ là như thế nào. Đây thật sự là cái nhìn của một bậc trí thức lương tâm và trung thực. Tác giả quan sát sự vật theo trình tự không gian và thời gian, đi từ ngoài vào trong. Trước hết ấn tượng đầu tiên của Lê Hữu Trác là cảnh vật tươi đẹp nơi phủ Chúa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đưa thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, rồi thì quang cảnh rộng lớn, đẹp mắt, “những dãy hành lang quanh co nối tiếp”, cảnh người qua lại nhộn nhịp “như mắc cửi”. Chỉ mới bấy nhiêu thôi đã khiến cho Lê Hữu Trác, vốn lớn lên trong nhung gấm, giàu sang cũng phải mở rộng tầm mắt mà âm thầm cảm thán “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường!”. Trong đôi mắt của một thầy thuốc quê mùa, phủ Chúa thực chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, “ngư phủ đào nguyên” cả, thực tươi đẹp không kể xiết.
Thế rồi khi bước vào nội cung, Lê Hữu Trác mới biết được cái cung cấm giàu sang nghiêm ngặt đến như thế nào. Khắp nơi nơi là đình đài, lầu các cao rộng, cảnh cung cấm được sơn son thếp vàng tỉ mỉ, rực rỡ, chưa kể những đồ vật bày biện bên trong toàn là những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Rồi thì không khí ngào ngạt các mùi hương thơm của nến, của hoa nhưng lại mang đến cảm giác tù đọng, ngột ngạt vô cùng, thứ nhất là vì cái không khí thâm nghiêm, thứ hai là vì cái vẻ tráng lệ xa hoa phi thực quá mức, khiến cho mọi thứ không còn giữ được vẻ đẹp tự tại ban đầu. Như vậy, qua đôi mắt quan sát tinh tường của Lê Hữu Trác ta đã thấy quang cảnh phủ Chúa hiện lên một cách chân thực và sinh động. Đó là một nơi xa hoa, tráng lệ, rực rỡ, không một nơi nào có thể sánh bằng, tuy nhiên cái đẹp vượt quá mức thường khiến cho cuộc sống vương giả trở nên ngột ngạt, tù hãm, dường như mất đi cái phần sinh khí tự nhiên của sự sống.
Đó là về cảnh sắc, về cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa ta lại càng thấy được cái mức độ xa xỉ tột cùng của đấng bề trên lúc bấy giờ. Một mâm cơm để mời các ngự y mà cái chén cái bát nào cũng bằng vàng, bằng bạc, đồ ăn thì toàn của ngon vật lạ, Lê Hữu Trác thầm nghĩ “bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Rồi thì đường vào phòng bệnh của thế tử tuyệt nhiên chẳng có một cái cửa nào, mà được phủ bởi năm sáu lần trướng gấm, cách biệt với bên ngoài. Trong phòng chỉ có một thế tử cùng với chúa vậy mà một đám người hầu, rồi lại một đám cung nhân chầu trực dù chẳng mấy khi có việc cần. Cũng chính cái lối sống, sung sướng xa hoa tột độ, nhưng ngột ngạt tù túng ấy đã khiến một đứa trẻ mới năm sáu tuổi mắc bệnh nặng. Lúc này đây màn che trướng phủ, sơn hào hải vị, lụa là gấm vóc lại cũng đang khiến con người ta trở nên bệnh tật, thế mới có câu cái gì quá cũng không tốt, là vậy.
Rồi thì căn nguyên bệnh tật của thế tử cũng là lời sâu xa của Lê Hữu Trác về tình hình đất nước lúc bấy giờ, “nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”, khó có thể chữa chạy. Ông đắn đo rất nhiều trong lúc chữa bệnh cho thế tử, không phải là không chữa được mà cốt là ông sợ mình bị giữ chân, bị cuốn vào cái vòng danh lợi luẩn quẩn không thể thoát thân được. Cuối cùng, ông kê một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử, bệnh sẽ khỏi nhưng lại không hết ngay và ông có thể an tâm rút về núi tiếp tục hành nghề mà không phải hổ thẹn với ơn nghĩa quốc gia bao đời.
Đoạn trích có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cái lối sống xa xỉ, hoang dâm vô đạo của phủ Chúa, chèn ép nhân dân bởi sưu cao thuế nặng, chỉ vì phục vụ cho cuộc sống xa hoa tột bậc của chúng, để nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng hay. Lúc này đây cảnh cung cấm tráng lệ nơi phủ Chúa chính là nỗi đau của của nhân dân, là cái xiềng xích đang ngày đêm đang áp lên đôi vai gầy của những người dân cùng khổ. Đồng thời đoạn trích cũng là tấm lòng coi thường danh vọng của Lê Hữu Trác, vị danh y ấy chỉ yêu tha thiết cái cảnh thanh bình, tự do nơi quê nhà, được hành y cứu người. Còn cái cuộc sống tuy xa hoa, sung sướng kia tuy hào nhoáng như rốt cục cũng phải chịu luồn cúi, khuôn phép thì có hay ho gì đâu.