Bài tham khảo số 4
Trong thời kì văn học trung đại, cảm hứng yêu nước và nỗi trăn trở chuyện nước nhà luôn là đề tài được khai thác phổ biến và sâu sắc. Xét trong hoàn cảnh thực tế, khi chỉ có nam nhân được đến trường học hành bài bản, cùng với nỗi âu sầu, khát khao cống hiến cho tổ quốc, cho nhân dân, cái "chí làm trai" luôn đặt nặng lên vai, lòng yêu nước luôn được các tác giả gửi gắm vào từng lời thơ, câu chữ. Đối với Trương Hán Siêu, một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam, nỗi niềm yêu nước được phơi trải với dòng sông Bạch Đằng, nơi ghi dấu biết bao huyền thoại cha ông dựng nước, giữ nước. "Bạch Đằng giang phú" hay còn gọi là "Phú sông Bạch Đằng" đã khẳng định một cách đanh thép và rõ ràng tình yêu nước hào hùng chảy tròn dòng máu Lạc Hồng, đồng thời bộc lộ sự hổ thẹn, tủi nhục khi cảm thấy bản thân chưa làm được gì cho đất nước.
Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủ yếu là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình. Sử dụng lối viết này, tác giả thể hiện tình cảm qua cách miêu tả thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương được tạo hóa ban tặng, lồng ghép sự tự hào, kính trọng tinh thần của bậc cha ông đã vì nước quên thân, hi sinh biết bao xương máu cho độc lập dân tộc, cuối cùng là kết thúc bản anh hùng ca với nỗi day dứt khôn nguôi khi bản thân chưa cống hiến cho đất nước. Qua tác phẩm, nhà thơ cũng khéo léo tái hiện lại những thước phim lịch sử oai hùng của dân tộc, những trận chiến mang tầm vóc lịch sử trên con sông Bạch Đằng huyền thoại, thể hiện sự tự hào, lòng tự tôn dân tộc, yêu mến nước nhà.
Lòng yêu nước của Trương Hán Siêu thể hiện ở cách miêu tả không gian, cảnh vật xung quanh người khách xuôi theo sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Vẻ đẹp thiên nhiên mở ra trước mắt với những vẻ đẹp tráng lệ trên dòng Bạch Đằng giang, một khung cảnh rung động lòng người với song, với cờ, với nước, với trời,... Đọc hai câu thơ đầu, độc giả có thể cảm nhận được lực hấp dẫn vô định của dòng sông đối với con thuyền. "Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều", qua những danh lam thắng cảnh hùng vĩ, qua những vùng đất mênh mông bể sở, đến với sông Bạch Đằng, con thuyền như bị cuốn, bị hút mà "bơi một chiều". Dường như không chỉ người, mà cả vật cũng bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp nơi đây. Phong cảnh mùa thu trên dòng sông lững lờ, dòng sông lịch sử vừa có nét oai hùng, dữ dội, vừa là cô thiếu nữ thiết tha, dịu dàng trong sắc trời ảm đạm. Nước và trời hòa thành một sắc, cái sắc u buồn của mùa thu, cái sắc đìu hiu nhuộm cả vào lòng người. Trên khung cảnh của nước trời vô tận ấy là nét chấm phá của "đuôi trĩ" với vẻ đẹp "thướt tha", dịu dàng. Trong vài câu thơ ngắn ngủi mà cảm tưởng như chứa đựng được mọi khía cạnh của dòng sông, có tinh tế, lả lướt của nước, của đuôi cờ, có sự dứt khoát, mãnh liệt của "sóng kình muôn dặm", của chiến công lịch sự vang dội một thời. Tình cảm yêu nước ở đây được thể hiện ở sự đồng cảm với thiên nhiên, yêu quê hương xứ sở, thấu cảm và đồng điệu với những cảnh đẹp của quê hương mình.
Tình yêu quê hương, cảm hứng yêu nước trong tác phẩm thể hiện rõ nét nhất ở sự tự hào với những chiến công hiển hách của ông cha trên dòng sông lịch sử. Những kí ức hào hùng như được tái hiện lại theo từng nhịp thơ, từng câu chữ, trải suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Người đọc tưởng như đang được tham gia vào chính những cuộc chiến đầy anh dũng, máu lửa
Đương khi ấy:
Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!Khác nào như khi xưa:Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù không rửa nổi!
Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.
Có lẽ, trong tư tưởng và quan niệm của nhà thơ, những trang sử vàng chói lọi khi một nước Nam nhỏ bé lúc bây giờ lại có thể một tay dẹp loạn quân Bắc xâm lược, đó là niềm hãnh diện truyền đời. Sự thất bại thảm hại của quân thù mạnh hơn ta cả chục, cả trăm lần dường như đã trở thành chất xúc tác để câu thơ trở thành một bản anh hùng ca vang dội, khiến cho không khí, những chi tiết của cuộc chiến chân thực như đang xảy ra trước mắt. Năm 938 Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm 981 Lê Đại Hành đánh tan quân Tống, và đến năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, sự thất bại của kẻ thù được khắc họa qua những câu thơ "tan tác tro bay", "hoàn toàn chết trụi", "nhục quân thù khôn rửa nổi",... Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn vì những trận thắng của quân ta như trận Xích Bích, Hợp Phì, những trận đánh để đời của Trung Hoa. Tác giả khẳng định tầm vóc của nước Đại Việt không kém cạnh so với cường quốc láng giềng. Tất Liệt, Lưu Cung, những danh tướng của Trung Quốc cũng bị đánh bại chỉ trong một lần "gieo roi". Trên cơ sở những chiến công hiển hách, đánh tan quân xâm lược ấy, Trương Hán Siêu bày tỏ sự kính nể, ngợi ca đến những vị tướng vĩ đại của Việt Nam:
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
"Trùng Hưng Nhị Thánh", "Ngô chúa" là những vị tướng nổi danh của đất Đại Việt, có công tống cổ Ô Mã Nhi, một tên tướng được Trung Quốc vô cùng trọng dụng và Hoàng Thao, thái tử Nam Hán thất bại thảm hại dưới tay Ngô Quyền. Sự tự hào của tác giả khi nhắc lại một thời quá khứ oanh liệt, hào hùng, một dân tộc tuy bé nhỏ về mặt đại lý, nhưng tầm vóc có thể sánh ngang với cường quốc láng giềng. Những chiến công vang dội, hiển hách đó là nỗi nhục của bè lũ xâm lược, là "tiếng thơm còn mãi" của dân tộc Việt Nam để lại cho con cháu mai sau. Những vị anh hùng vì nước, vì dân, lãnh đạo quân nhân chiến thắng kẻ thù nham hiểm, đó không chỉ là sự tự hào mà còn là lời khẳng định sức vóc và mưu trí con người Đại Việt không thua kém một quốc gia nào. Tinh thần yêu nước được thể hiện một cách bi tráng, nhắc lại những trận đánh trên Bạch Đằng Giang đã một lần nữa khẳng định tình yêu với quê hương xứ sở và sự tôn trọng, kính yêu những vị danh tướng dân tộc.
Tinh thần yêu nước của tác giả còn thể hiện qua sự tiếc thương cho sự mai một, bào mòn của thời gian, đồng thời là nỗi hổ thẹn vì hậu thế chưa thể làm gì rạng danh tổ quốc. Những dòng thơ mang đậm cảm giác tang tóc, cô quạnh
Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Thời gian khiến cảnh vật trở nên "đìu hiu", "sông chìm giáo gãy", "gò đầy xương khô", những vết tích của chiến tranh vẫn in hằn ven bờ sông thanh tĩnh. Chiến công oai hùng nào cũng phải đánh đổi bởi máu và nước mắt, chính vì thế, hậu thế có trách nhiệm phải biết ơn và giữ gìn công lao trời bể của cha ông. Có lẽ vì vậy, nhìn thấy cảnh bến bờ tang thương này, trong lòng tác giả không tránh khỏi đau đớn, xót xa, xót cho những đồng bào đã nằm xuống vì độc lập dân tộc, xót cho thời thế nước nhà đang loạn lạc, đảo điên, xót cho bao công dựng nước, giữ nước của các bậc đế vương đi trước lại đang bị chính con cháu hậu thế không coi trọng, giữ gìn. Dường như trong cái ai hoài của tác giả còn ẩn chứa một khát khao, mong muốn có người hiền tài đủ sức trị vì đất nước, kế nghiệp cha ông gìn giữ và phát triển nước nhà.
Tinh thần yêu nước của Trương Hán Siêu đã được bộc lộ rõ qua các khía cạnh nhân văn sâu sắc. Ở đó, chúng ta thấy được sự rung cảm trước cái đẹp tuyệt sắc của quê hương, thấy được sự tự hào và lòng biết ơn đối với những bậc danh tiếng đã đánh đuổi quân xâm lược, giữ gìn độc lập dân tộc, ghi những dấu mốc vàng son vào lịch sử nước nhà, và cuối cùng là nỗi tiếc nuối, buồn thương cho thế thời, cho hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ. Có thể nói, cái trăn trở của Trương Hán Siêu không chỉ là trăn trở của một mình ông, đó là nỗi canh cánh trong lòng hầu hết các vị nam nhi đương thời, phải làm gì cho tổ quốc, cho đất nước, cho dân tộc.
Lời thơ gãy gọn, đanh thép, mang đậm khí khái hào hùng nhưng cũng không kém phần thanh cao, tác giả đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, cháy bỏng cùng khát vọng được cải tổ đất nước, mong mỏi có một bậc đế vương anh minh xây dựng nước Đại Việt vững mạnh, trường tồn. Qua bài thơ, tác giả thể hiện lòng biết ơn vô hạn đến những anh hùng có công dựng nước, giữ nước, đồng thời đặt ra bài học về trách nhiệm và nghĩa vụ của con cháu đời sau đối với giang sơn.