Bài tham khảo số 3
Bài phú trên sông Bạch Đằng là một bài ca bất hủ, một áng văn xuôi mẫu mực được xếp vào hàng "thiên cổ hùng văn" của văn học nước nhà. Trương Hán Siêu bằng hiểu biết sâu rộng và ngòi bút đầy tài hoa của mình đã khắc hoạ nên một cảnh tượng chiến đấu trên sông Bạch Đằng đầy hào hùng, sống động và vô cùng chân thực. Qua lời kể các bô lão, trận chiến như diễn ra trước mắt người đọc đầy khí thế, oanh liệt.
Nếu như nhân vật khách là kẻ đã đi nhiều nơi, chu du khắp thiên hạ, vui thú trước bao cảnh nước non kì vĩ của thế giới thì nhân vật các bô lão là những người đã chứng kiến trận chiến giữa quân dân Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng trong cuộc chiến của quân Mông - Nguyên nói riêng và hàng loạt chiến thắng của dân tộc ta trên dòng sông này nói riêng. Bởi vậy, khi nhân vật khách trầm tư, hoài cảm, tỏ ý thương tiếc thì các bô lão bằng kinh nghiệm của mình đã hiểu ý khách có điều đang thắc mắc, băn khoăn bèn cất lên tiếng chào như một câu hỏi thân thương:
"Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu."
Các bô lão bằng sự nhiệt thành, lòng hiếu khách, trân trọng những vị khách ghé thăm đã đóng vai trò như một "vị hướng dẫn viên du lịch", giới thiệu chiến địa trên sông Bạch Đằng và cảnh chiến trận trên sông đầy cụ thể, sinh động. Là người dân địa phương, họ vô cùng tự hào trước chiến công hiển hách ấy, kể lại bằng giọng điệu vừa phấn khởi và vô cùng xúc động.
Mở đầu, nhân vật các bô lão kể về trận chiến vua Trần bắt tên Ô Mã cầm đầu, và đây cũng là nơi mà vua Ngô đại phá quân Hoằng Thao, là dòng sông đã kinh quá nhiều chiến trận. Trận chiến của vua tôi Trần Hưng Đạo được chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng, cẩn thận và chu đáo. Không khí chiến trận đầy quyết liệt:
"Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi."
Đội quân chiến đấu vô cùng hùng mạnh, vũ khí giáo gươm sáng chói, phương tiện thuyền bè nhiều vô kể, khí thế dũng mạnh ngút trời, cờ chiến tung bay phấp phới giữa trời trận mạc. Cuộc chiến đấu khiến cho ánh nhật nguyệt cũng phải mờ, bầu trời ước chừng đổ sập. Đó là trận chiến mà cả hai bên đều khó phân thắng bại, kẻ tám lạng người nửa cân, ngang sức, ngang tài.
Theo lời các bô lão, mỗi bên tham chiến theo sách lược khác nhau. Quân giặc vạn binh, lực lượng mạnh lại thêm mưu hèn kế bẩn, dối trá gian manh. Kiêu ngạo, khoác lác, hống hách:
"Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi."
Còn quân ta là phe chính nghĩa, lực lượng hùng hậu cũng không kém lại được lòng người, thuận ý trời, trên dưới đoàn kết một lòng. Như đạo lí ở đời, kẻ cường bạo ắt phải chịu nhục nhã, phe chính nghĩa nhận thắng lợi về tay. Quân ta thắng lợi vẻ vang, nghìn năm lưu danh sử sách, lúc này lời các bô lão đầy hứng khởi, tự hào:
"Thế nhưng:Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi."
Dù cho nước sông ngàn năm vẫn chảy mãi thì nỗi nhục quân thù vẫn ngàn năm chẳng thể phai. Dùng các trận thua đau đớn của Tào Tháo trong trận Xích Bích, Bồ Kiên thất bại ở Hợp Phì để mỉa mai quân địch và ca ngợi thắng lợi của ta. Các bô lão khẳng định thêm một lần nữa khẳng định về tính chất chính nghĩa của cuộc chiến dân tộc. Đó là chân lí đời đời sáng rõ.
Trong niềm hân hoan chiến thắng ấy, các bô lão đã tự ca ngợi, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với người lãnh đạo tài ba. Giặc thất bại là nhờ thế đất hiểm trở, nhân kiệt tài năng, thông minh mưu lược, dũng cảm nơi chiến địa. Con người tài đức sức mạnh và trí tuệ là yếu tố tiên quyết của thắng lợi này.
Qua hoài niệm và suy ngẫm của các nhân vật “chủ - khách” bài phú đã làm sống dậy hào khí Đông A oanh liệt và hào hùng thời đại nhà Trần. Trương Hán Siêu đã khéo léo xây dựng hình tượng con sông Bạch Đằng kì vĩ tráng lệ trong không gian quá khứ và một Bạch Đằng giang lặng lẽ, hiu quạnh trầm mình sau những chiến tích ấy để ngàn đời sau thế hệ con cháu vẫn luôn tự hào, ghi nhớ về những di tích lịch sử và chiến công vĩ đại của cha ông.