Bài tham khảo số 2
Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Trước hết điều lý thú đáng ghi nhận ở đây là Nguyễn Trãi không những chỉ viết bằng chữ Nôm mà quan trọng hơn là ông viết về loại cây dân dã, gần với cuộc sống bùn đất quê mùa. Như nhiều người đều biết, thơ cổ không thiếu những bài tả về hoa lá, cây cối, nhưng thường chỉ tập trung miêu tả một số cây “cao sang” quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai. Dường như phải đến Nguyễn Trãi, những loại cây cối “tầm thường” kia mới được hiện diện trong thơ ca. Như vậy có nghĩa, tuy cùng viết về thiên nhiên (như không ít nhà thơ thời phong kiến khác), nhưng hướng khai thác của Nguyễn Trãi đã có sự cách tân so với những cây bút cùng thời. Bài thơ Cây chuối, giúp ta hiểu thêm về con người Nguyễn Trãi. Nếu qua Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập… người đọc biết một Nguyễn Trãi anh hùng, yêu nước thiết tha, thì qua bài Cây chuối ta thấy thêm một Ức Trai nhạy cảm, đa tình và trẻ trung. Tuy bài thơ có nhan đề là Cây chuối và cả bốn dòng thơ đều nói về cây chuối, nhưng không phải là bài thơ tả cây chuối đơn thuần mà thực chất là một bài thơ tình, bộc lộ một cái nhìn trẻ trung tươi mát, đầy lãng mạn của nhà thơ trước tạo vật. Có thể nói, bao trùm bài thơ là cảm hứng về tình yêu nồng thắm.
Lâu nay, đã có nhiều cách hiểu khác nhau về bài thơ này. Để tránh có những suy diễn đáng tiếc, thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng câu chữ của bài thơ. Bài Cây chuối có thể diễn Nôm như sau: Bén khí hậu thời tiết của mùa xuân, cây chuối vốn đã tươi tốt, nay lại tốt tươi thêm. Cũng nhờ hơi xuân ấy, buồng chuối đẹp lạ lùng tựa hồ như tỏa hương thơm quyến rũ suốt đêm… Mùa xuân, nhìn những đọt chuối non còn cuộn lại chưa nở, thi sĩ tưởng tượng như một bức thư tình còn phong kín. Nhà thơ muốn nhờ một làn gió xuân thổi tới, gượng nhẹ giúp cho đọt chuối - bức thư tình kia mở ra xem…
Ở đây cần phải lưu ý, một mặt, Nguyễn Trãi có những cách tân khiến cho bài thơ có giá trị độc đáo, nhưng mặt khác, nhà thơ vẫn không thể hoàn toàn thoát ra khỏi những quy phạm của thi pháp văn học trung đại. Có lẽ không nên hiểu cây chuối ở đây phải là một cây chuối cụ thể “tả thực” nào, và đang ở vào một mùa xác định nào trong năm. Và “hơi xuân” cũng không phải chỉ có ba tháng mùa xuân (chuối không trổ buồng vào mùa xuân). Cố nhiên có nhiều cách hiểu về mây từ “đầy buồng lạ”; “buồng” là phòng của người thiếu nữ, phòng của thi nhân hay là buồng chuối. Theo giáo sư Bùi Văn Nguyên, một chuyên gia về Nguyễn Trãi, tự dạng (dạng chữ Nôm) của chữ buồng trong bài thơ là chữ buồng chỉ buồng chuối, buồng cau (khác với chữ buồng chỉ căn buồng, buồng the, khuê phòng).
Vậy mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi có lẽ cho người đọc cảm nhận về một cây chuối biểu tượng. Do có được sức xuân, tình xuân tiềm tàng từ bên trong nên khi gặp được “hơi xuân”, cây chuối càng thêm tươi tốt. Xuân Diệu trong khi bình bài thơ này đã lưu ý người đọc lý giải tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm” mà viết “tốt lại thêm”, ông cho rằng: “Lại tốt thêm” thì có bề dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu, chẳng qua theo đà, theo thời mà thêm tốt, bớt tốt, còn “tốt lại thêm” tức là vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Ngay từ lúc bén hơi thì tốt thêm. Đây thật là những lời bình tinh tế, sâu sắc. Khi nói đến mùa xuân Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến “hơi xuân”, sức xuân nét tiêu biểu, đặc thù của nó chứ không cốt ghi nhận ở phương diện thời gian.
Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối. Đây là loại cây có buồng “Đầy buồng lạ” và kỳ diệu hơn là hương thơm của buồng chuối ngào ngạt, quyến rũ suốt đêm. Nhà thơ Quang Huy cho rằng: “Nghĩ cho cùng, quả chuối kể cũng lạ. Nó không giống bất cứ một thứ quả cây nào dù mơ hay mận, dù là cau hay bưởi… Đến như cách xếp đặt quả chuối thành nải thành buồng như vậy cũng kỳ lạ nốt. Mặc dù quả chuối rất gần gũi và thân quen với mỗi chúng ta, nhưng Nguyễn Trãi vào lúc ấy đã sửng sốt: “Đầy buồng lạ”, chính là như vậy”. Tìm ra cái lạ trong sự vật đã quá quen nhàm: đó là tư chất của nghệ sĩ.
Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Có lẽ khi viết những câu này, Nguyễn Trãi đã được gợi ý từ một vế cầu đối “Thư lai tiêu diệp văn do lục” (Thư viết trên lá chuối gửi đến lời văn còn xanh). Cho dù sự phán đoán trên đây là đúng thì công lao của Nguyễn Trãi cũng rất lớn. Từ cách diễn đạt của người xưa, Ức Trai sáng tạo ra một hình tượng vừa chân thực vừa mới mẻ. Bằng cái nhìn tinh tế rất nghệ sĩ, Nguyễn Trãi thấy tàu lá chuối kia như là một bức thư tình còn đang phong kín, chứa chất trong đó bao ngọt ngào ân ái và e ấp của một tình yêu buổi đầu trao gửi còn rất đỗi ngập ngừng. “Phong còn kín” vừa nói được sự trắng trong vừa nói được ý e lệ, giữ gìn.
Ôi, người anh hùng Nguyễn Trãi nhìn một cái đọt chuối mà tưởng tượng ra một phong thư, một bức thư tình trai gái viết cho nhau. Người ta thường nói, thi sĩ là “giống hữu tình” là “nòi tình” quả là đúng với trường hợp của tác giả bài thơ Cây chuối này.
Nhưng tình tứ hơn nữa là câu cuối cùng. Câu kết bài thơ kết lại bằng 6 chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên tưởng nghệ thuật rất nghệ sĩ. Đọc câu này, ta có thể hình dung: Gió xuân từ nơi xa thổi đến, như một bàn tay run rún và hồi hộp vì xúc động, gió gượng nhẹ, mơn man và khẽ khàng trân trọng mở dần dần bức tình thư kia… Cảm nhận bài thơ như một chỉnh thể, chúng ta có thể nghĩ đến cây chuối và gió xuân cũng như cô gái và chàng trai. Chàng trai say mê, trẻ trung nhưng cũng rất ý nhị, tinh tế. Cô gái thì trinh trắng và e ấp… Hai câu thơ nói trên ít nhiều cũng có yếu tố tả thực: đọt chuối non đang vươn dần lên, đang mở dần ra trong gió xuân. Nhưng điều quan trọng hơn là Nguyễn Trãi đã gửi vào đó cảm hứng tươi mát của một khách đa tình mà tao nhã.