Bài tham khảo số 1

Bài thơ là câu chuyện tình từ thủa tuổi thơ của hai người hàng xóm. Đôi trẻ lớn lên, tình yêu trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kỳ kháng chiến.


Từ buổi “Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc” đến “Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi” để rồi cuối cùng “Hôm nay nhận được tin em”. Song, dù em mất nhưng tình yêu không mất bởi tâm hồn và thể xác em đã hóa thân vào với đất nước, quê hương….


Bài thơ được tác giả viết năm 1960 khi nhận được thông tin vợ và con ông bị giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Song thật may đây là nhầm lẫn. Vợ và con ông đã được thả năm 1962 do địch không tìm ra căn cứ để kết tội. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Nhà thơ Giang Nam.


Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, Nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông lại ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã.


Có một điều lạ không phải ai cũng biết là nguyên mẫu của bài thơ – “cô bé nhà bên/ có ai ngờ cũng vào du kích”, sau bị giặc giết quăng mất xác ấy chính là người vợ hiền thục hiện vẫn sống bên nhà thơ.


Về chuyện này, đích thân tác giả đã kể lại trong cuốn “Sống và viết ở chiến trường” như sau:


“Đang ở căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hòa, tôi được Phó Bí thư Tỉnh ủy mời sang thông báo tin dữ: Vợ con tôi đã bị thủ tiêu trong nhà lao rồi (trước đó, vợ Giang Nam cùng cô con gái chưa đầy tuổi của ông bị địch bắt ở Thủ Đức và đưa vào giam ở nhà lao Chí Hòa, Sài Gòn – PK). Tôi nghe tin mà choáng váng như trời sập. Những kỷ niệm cũ, tình yêu e ấp, vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt, cả hai mẹ con cô ấy đều khóc ròng… Tất cả như sống dậy xót xa, nhức nhối và rõ ràng cứ như mới xảy ra hôm qua. Tôi đã viết bài thơ Quê hương trong tâm trạng đau đớn tột cùng ấy. Rồi tôi đã gửi bài thơ ấy theo đường giao liên ra cho Báo Thống Nhất ở Hà Nội. Khoảng tháng 8 năm 1961, trên đường công tác từ huyện Sơn Khánh đi Khánh Vĩnh, khi dừng chân ở một trạm nghỉ, tôi đã được nghe tin qua Đài Tiếng nói Việt Nam là bài thơ Quê hương của tôi được giải nhì Báo Văn nghệ. Tôi mừng run lên, báo ngay cho anh em cùng đoàn công tác. Tôi như thấy vợ con tôi ở bên kia thế giới về lại cùng tôi”.


Không phải “như thấy” thôi đâu, mà là sự thật. Thì ra, thông tin vợ con Giang Nam chết trong nhà lao là không xác thực. Năm 1962, bà cùng con gái được thả và hai năm sau đó, cấp trên đã bố trí cho nhà thơ gặp mặt vợ con… Dẫu sao, từ một sự nhầm lẫn, Giang Nam đã có được một bài thơ để đời.


Các nhà nghiên cứu văn học thường liên hệ bài thơ “Quê hương” của Giang Nam với các bài “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan và “Núi đôi” của Vũ Cao. Cả ba bài thơ đều có chung mô típ: Các nhân vật nam chính đều đi bộ đội chiến đấu xa nhà; các nhân vật nữ chính (có thể là vợ, có thể là người yêu) thì ở lại chiến đấu hoặc công tác tại quê nhà và rồi tất cả đều ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ.


Cả ba bài đều có sức hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. Mặc dù “Quê hương” của Giang Nam không có những ý thâm thúy, những hình ảnh đặc sắc và khơi gợi như “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, cũng không có giai điệu tinh tế, khoáng đạt như “Núi đôi” của Vũ Cao; song nó lại có cái duyên riêng và đặc biệt, mối tình của người nữ du kích với chàng trai trong bài thơ rất mộc mạc, hồn nhiên và có nét gần gũi, phổ biến trong đời sống. Điều đó khiến bài thơ càng dễ được quảng bá.


Đọc bài thơ, không ai là không nhớ tới tiếng cười khúc khích của cô gái, cũng như khó có thể quên được cái việc… khóc của cậu bé ở phần mở đầu bài thơ (Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được…/ Chưa đánh roi nào đã khóc!/ Có cô bé nhà bên/ Nhìn tôi cười khúc khích…).


Đó chính là mấu chốt tạo nên sức ám ảnh của hình tượng, và là cái cớ để triển khai tứ thơ. Về đoạn thơ này, Hoài Thanh đã có lời bình rất tinh tế: “Khóc vì sợ đánh nhưng lại cũng vì muốn đánh vào tấm lòng của mẹ thương con mà người con rất biết”.


Với bài thơ “Quê hương”, Giang Nam đã xây dựng được những nhân vật cùng những tình huống rất đáng yêu. Chính điều này đã khiến độc giả hầu như không để ý (hoặc bỏ qua) cách sử dụng ngôn từ chưa phải đã thật kín kẽ của ông.


Ví như khi ông viết: “Giặc bắn em rồi, quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích, em ơi”, đã có người đặt câu hỏi: Nếu em là du kích thì giặc bắn em là lẽ đương nhiên, sao lại nói là “chỉ vì”? Hay khi ông viết “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm”, đã có người đặt vấn đề: Có nên để chữ “yêu” bên cạnh mấy chữ dễ bị suy diễn như chữ “chim” chữ “bướm” kia không?


Tất nhiên, không cực đoan đến mức cho Giang Nam viết vậy là “dung tục” (như một nhà thơ từng viết bài đăng báo “kết tội” vậy), bởi một khi ta đã nhập hồn vào bài thơ, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với nhân vật thì hẳn ta sẽ không có sự xét nét câu chữ thế ấy.


Sinh thời, nhà phê bình Hoài Thanh mặc dù thừa nhận Giang Nam có những bài thơ hay, song cũng phải nghiêm khắc nhắc nhở, là “ngòi bút của Giang Nam có khi quá dễ dãi”.


Ở đoạn kết bài “Quê hương”, Giang Nam từng viết: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”, hai chữ “xương thịt” đặt ở đây có thể không khiến bạn đọc “gai gợn” bởi dẫu sao trước đó, nhà thơ đã làm ta xúc động trước cái chết của người nữ du kích không biết địch vất xác nơi đâu.


Nên cái cảm giác “trong từng nắm đất/ có một phần xương thịt của em tôi” là xuất phát từ đời thực, tuy nhiên, cũng hai chữ ấy mà nhà thơ đưa vào đoạn thơ sau (bài “Gửi miền Bắc”) thì quả thực là không ổn, rất không ổn:


Hà Nội ơi, máu về tụ giữa tim

Tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ?

Giặc Mỹ liệu hồn: thịt xương ta đó.


Ưu điểm của thơ Giang Nam là có tình. Song ngoài tình thì thơ còn là nghệ thuật ngôn từ. Việc tác giả dùng từ ngữ thiếu chọn lọc trong một số trường hợp đã gây bất lợi cho việc thể hiện tình cảm của ông…

Hình minh hoạ
Hình minh hoạ

xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |