Bài tham khảo số 1

Nhà thơ Trần Nhuận Minh có nhiều bài thơ được bạn đọc yêu thích, nhưng Dặn con lại được bình chọn nằm trong top 100 bài thơ hay của thế kỷ XX. Điều đó cũng không có gì lạ, bởi qua thi phẩm này, người đọc bắt gặp một tấm lòng thương người, thương đời sâu sắc bằng một hình thức nghệ thuật giản dị của thể thơ 6 chữ thấm đẫm âm hưởng trữ tình.


Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống coi trọng tình nghĩa, biết yêu thương và chia sẻ những hoàn cảnh gian nan, khó nhọc. Đó là đạo lí, là phẩm chất làm người mà bất kỳ ai cũng đều trân trọng, cảm kích. Việc dạy dỗ con cái biết thông cảm cho hoàn cảnh của người khác cũng là thiên chức của cha mẹ, từ đó giáo dục tinh thần lấy nhân nghĩa mà ứng xử với nhau trong cuộc sống đời thường.


Là nhà thơ am thấu lẽ đời nên ngay từ khi mở đầu thi phẩm, lời dặn dò của người cha với con thật nhẹ nhàng mà sâu lắng, giản đơn nhưng chan chứa nỗi niềm. Tác giả tâm sự thủ thỉ chứ không lên giọng, cao đạo của kẻ bề trên, vừa có lí có tình nên người con cũng dễ bề thấu cảm:


Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn


“Chẳng ai muốn làm hành khất”, câu thơ nhẹ mà sâu nhờ thủ pháp nói tránh đầy nghệ thuật. Tác giả không dùng từ ăn mày, đổi lại dùng từ Hán Việt “hành khất” hết sức trân trọng để chỉ người khách “hôi hám úa tàn” kia. Lí giải hoàn cảnh của họ, người cha cặn kẽ giải thích cho con hiểu chẳng qua vì “tội trời đày ở nhân gian”, nghĩa là số phận bắt họ vậy, không ai muốn mình rơi vào hoàn cảnh ấy đâu con.


Giảng giải nhẹ nhàng, từ tốn để khơi gợi tình thương, sự cảm thông nơi con trẻ là cách thức dễ đi vào tâm hồn thơ ngây nhất, từ đó đánh động để đứa trẻ đồng tình và hưởng ứng theo mình: “đừng cười giễu họ/ dù họ hôi hám úa tàn”.


Dù sao họ cũng là con người, có rách rưới dơ bẩn chẳng qua là do hoàn cảnh tạo ra, không nên khinh khi, giễu cợt họ mà mang tội. Tôi nghĩ, phải thương người lắm, thấu hiểu tình đời lắm tác giả mới có những câu thơ gan ruột, nhẹ nhàng mà thẳm sâu đến thế.


Biết ứng xử có văn hóa và cảm thông cho người “hành khất” là cần thiết nhưng chưa đủ. Trong bài thơ, ở khổ thứ hai, dường như chưa yên lòng với con trẻ, người cha tỉ mỉ dặn dò thêm:

Nhà mình sát đường họ đến

Có cho thì có là bao

Con không bao giờ được hỏi

Quê hương họ ở nơi nào


Mỗi người ai cũng có một quê hương, “quê hương nếu ai không nhớ/ sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung Quân). Sao người cha lại dặn con mình “con không bao giờ được hỏi”? “Không bao giờ” là cấm kị, điều không được phép, mạnh mẽ và quyết liệt lắm đấy.


Dặn với thái độ dứt khoát thế chắc là người con sẽ không dám đâu. Nhưng là cớ gì vẫn là điều thắc mắc, khó đoán ẩn trong chiều sâu tâm hồn người cha mong muốn đứa con kia. Chúng ta, người tiếp nhận văn bản thơ, bằng chính trải nghiệm của mình phải đi trả lời cho điều đó.


Mỗi người ai cũng có một quê hương, điều đó là chắc chắn. Tuy nhiên, con người ta nhiều lúc không dám nhận mặt quê hương mình, nhất là lúc gặp phải hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn vì cảm giác sợ quê hương bị “vạ lây”. Đây không phải là tâm lí phụ rẫy mà là cảm thức trân trọng quê hương bản quán. Một vẻ đẹp nhân văn và sâu sắc trong tâm hồn con người Việt Nam.


Không chỉ dặn con ứng xử có văn hóa và tử tế với người ăn mày, tác giả cũng không quên nhắc nhở con về “Con chó nhà mình rất hư/ Cứ thấy ăn mày là cắn”. Nó hư vì nó không biết được lẽ đời như con người tinh khôn, ngoài sự cảnh giác còn phải có tình thương yêu đồng loại.


Trong văn xuôi, cách gài chi tiết kiểu này thường được xem là rất đắt, với thơ lại càng quý giá bội phần, vì nhờ đó mà tứ thơ được tô đậm thêm khiến người đọc bừng ngộ nhiều điều lí thú. Chuyện con chó hung hăng với người hành khất là không được, con phải dạy nó tuân thủ phép nhà mình, nếu không được thì nên đem bán. Nhẹ nhàng là thế, tình và lí cũng rất rạch ròi buộc người con phải tìm cách xử lí cho phù hợp.


Trước người ăn mày đáng thương kia, người cha dặn con thủ thỉ, nhẹ nhàng hết điều này đến điều khác để rồi cuối cùng đúc kết thành một lẽ sống ở đời, một tiên lượng thật logic và chí tình về kiếp nhân sinh. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” (Trịnh Công Sơn), một tấm lòng nhân ái bao la, đó mới là giải pháp tốt nhất để nối kết mọi cá thể giữa cõi phù sinh tạm bợ này. Tấm lòng ấy, tình thương ấy biết đâu là tài sản quý giá sau này, là phước lành theo thuyết nhà Phật:


Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này


Khổ thơ có 4 dòng thơ, 24 tiếng mà khái quát sâu sắc tư tưởng tác giả trong việc khẳng định hiện tại, dự báo một tương lai bất trắc có thể xảy ra và hi vọng về một điều tốt lành đáp lại. Quan niệm nhà Phật về thuyết nhân quả đã được Trần Nhuận Minh sử dụng nhuần nhuyễn và thẩm thấu trong khổ thơ này. Từ một hoàn cảnh đặc biệt của người ăn mày ở ba khổ thơ trên, tác giả đi đến một chiêm nghiệm mang màu sắc nhân văn và triết lí sâu sắc.


Mình no ấm phải thương yêu, giúp đỡ kẻ khốn khó, cơ hàn. Điều tưởng đơn giản mà không phải ai trên đời cũng thực hiện được. Vì vậy, khổ thơ cuối bài vừa như một lời khuyên, vừa như một tuyên ngôn sống của Trần Nhuận Minh: Phải biết thương người, thương đời thì mới xứng đáng là một con người sống tử tế.

Thơ là người mà thơ cũng là đời. Thơ hay như thiên sứ gánh trên mình trách nhiệm sẻ chia cả buồn đau và hoan hỉ. Cuộc thế vần xoay với biết bao định mệnh nghiệt ngã nào ai đã lường hết được. Thấu suốt lòng người và tình đời trong một bài thơ nhỏ nhắn, kiệm chữ quả là không dễ.


Với Trần Nhuận Minh, điều đó coi như đã hoàn tất nhờ cuộc “chạm trán” hi hữu với người ăn mày chăng? Biết đâu lòng tốt của nhà thơ học theo thi thánh Đỗ Phủ này đã được “ban phước lành” bằng một bài thơ hay như Dặn con đây chẳng hạn, điều đó cũng tốt lắm thay!

Hình minh hoạ
Hình minh hoạ

xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |