Bài tham khảo số 1
Nhận định về nền thơ Mới Việt Nam giai đoạn 1932-1941, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những nhận định rất sâu sắc và toàn diện về một loạt những cái tên nổi trội trong thời kỳ này rằng: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, kỳ dị như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, quê mùa như Nguyễn Bính, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Đôi lúc ta vẫn tự hỏi rằng phải chăng Xuân Diệu có gì thật xuất sắc để Hoài Thanh phải dành tận 3 tính từ mới đủ khái quát hết chất thơ ông như thế. Nhưng rồi đọc thơ Xuân Diệu ta mới vỡ ra một điều rằng thơ Xuân Diệu dùng 3 từ ấy để miêu tả, thì có lẽ cũng vẫn là bủn xỉn, keo kiệt lắm. Trước cách mạng thơ Xuân Diệu nói về tình yêu với những gì thiết tha nồng nàn, rạo rực nhất mà đôi lúc ta có thể ví nó là một nụ hôn kiểu Pháp giữa những kẻ đang si mê vì tình. Thơ ông như một khu vườn đủ mọi hương sắc, là một bản giao hưởng đủ mọi thanh âm, tình yêu cũng muôn màu muôn vẻ từ ngây thơ e ấp, nồng nàn, đằm thắm đến si mê điên dại. Mà Vội vàng chính là thi phẩm tiêu biểu nhất cho lối viết, cho hồn thơ lúc này của Xuân Diệu. Ở đó người thi sĩ vì "tình" mà trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc, đó là những cảm xúc rất "mới", rất lạ, là thứ xúc cảm của "một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này".
Cũng phải nói rằng không phải cứ nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến một nhà thơ suốt ngày say mê tình yêu nam nữ, ta phải hiểu thứ tình yêu của ông là một tình yêu rộng lớn bao la. Ông thiết tha với thiên nhiên, với vẻ đẹp của mùa xuân, có lòng yêu tha thiết với tuổi xuân của con người, với cuộc đời, và một phần nhỏ trong đó chính là tình yêu nam nữ. Chính vì vậy nên mới nói Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình, và chữ "tình" ở đây thì rộng rãi lắm.
Quay lại với Vội vàng, ở khổ thơ đầu tiên, người ta thấy thi sĩ hiện lên với một tâm hồn khao khát níu giữ rất lạ, dường như ở đây tồn tại đến hai cái "tôi" tách biệt, cùng hướng về một phía, cùng mong được giữ lại vẻ đẹp của tạo hóa, đó là cái tôi đầy "ích kỷ" và khác biệt, lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Mới.
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Biện pháp điệp cấu trúc "Tôi muốn...", bộc lộ niềm khao khát mãnh liệt của tác giả trong việc "tắt nắng", "buộc gió", chặn đứng lại bước đi của tạo hóa, của thời gian để giữ lại những gì tươi đẹp nhất của mùa xuân, đó màu nắng hồng ấm áp, đó là mùi hương thơm ngát của muôn hoa đang khoe sắc khắp nhân gian. Cái "tôi" trữ tình của thi sĩ sĩ đã được bộc lộ bằng những ham muốn có phần kỳ quặc ấy. Lúc đầu có lẽ người ta thấy Xuân Diệu giống một kẻ ngông cuồng, táo bạo vì tình, thế nên mới có những suy nghĩ nông nổi và thách thức cả tạo hóa như thế, nhưng lúc nghĩ lại người ta lại thấy Xuân Diệu thật giống một đứa trẻ hồn nhiên, trong sáng và bướng bỉnh, một khi đã thèm, đã thích cái gì thì chỉ muốn chiếm làm của riêng cho kỳ được, một cách "ích kỷ" rất ngây thơ và có thể thông cảm được. Nói Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới quả thật là đúng, và nó có cái lý của nó cả, khi các thi sĩ cùng thời, cũng sáng tác thơ Mới nhưng vẫn chưa thoát khỏi việc tìm "sự quên", "sự thoát ly" ở những viễn cảnh không phải trần gian, hay vẫn còn bế tắc trước thế sự đường thời. Thì Xuân Diệu lại cho người ta thấy một diện mạo thơ thật lạ, một triết lý nhân sinh mới: Cái đẹp nằm ngay ở trần gian, ở ngay cạnh chúng ta chúng không phải ở bồng lai tiên cảnh nào hết! Và khi thơ ông đến nó đã thực sự là một mồi lửa muốn "đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới". Trong ý thức về bước đi của thời gian và đời người ngắn ngủi hoàn toàn tách biệt lẫn nhau, người chết là trở về với cát bụi, chẳng có vòng luân hồi chuyển thế nào cả, thì thi sĩ lại càng trân quý hơn cái cuộc đời vốn ngắn ngủi của mình, trân trọng tuổi trẻ và yêu nhất là mùa xuân. Thế là trước cảnh tượng thời gian thoi đưa, bỗng nhiên Xuân Diệu cảm thấy hoảng hốt, cảm thấy lo lắng, sợ những thứ đẹp đẽ mà mình vẫn trân quý bao gồm ánh nắng và hương hoa hai thứ đại diện cho mùa xuân sẽ nhưng chóng vụt mất và lụi tàn. Thành ra người mới bộc lộ niềm khát khao được "tắt nắng", "buộc gió" kiềm giữ vòng quay của tạo hóa là vậy. Nhưng dĩ nhiên đây chỉ là giải pháp, lúc thi nhân còn bối rối, còn chưa tìm ra được giải pháp nào mà thôi.
Đến tám câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu tạm gác lại cái khao khát ngông cuồng mãnh liệt của mình để hòa vào thưởng thức vườn xuân tươi đẹp một cách sung sướng và đầy đam mê. Chính vì thế bức tranh thiên nhiên, bức tranh tình yêu dưới ngòi bút của thi sĩ cũng trở nên nồng nàn, đắm say, đủ sắc đủ vị.
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Ta có thể nhận thấy rằng từng vần thơ của Xuân Diệu đều hiện rõ lên cái sự vui mừng, hạnh phúc đến tột cùng khi bản thân thi sĩ phát hiện ra một thiên đường ở chính ngay bên cạnh mình nơi mình vẫn thường sinh sống. Trước niềm vui có quá đỗi bất ngờ ấy, Xuân Diệu đã không kiềm lòng được mà sử dụng toàn trí, toàn thần, toàn hồn, toàn thân thể, căng mở hết tất cả các giác quan để tận hưởng bữa tiệc mùa xuân tràn trề, đang bày ra thịnh soạn ngay trước mắt. Điệp khúc "này đây..." được lặp đi lặp lại tới 5 lần, kết hợp với cả thủ pháp liệt kê, tạo nên một nhịp thơ nhanh, dồn dập, liên tiếp, như điệp khúc rộn ràng của một khúc ca xuân, thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, ngạc nhiên, lạ lẫm của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân. Có thể hiểu được rằng với Xuân Diệu một người tha thiết với mùa xuân như thế, thì bất kỳ cảnh sắc nào lọt vào tầm mắt của thi nhân cũng dễ dàng làm trái tim của thi nhân xao xuyến, rung cảm vô cùng: Đó là cảnh ong bướm say mê, âu yếm ngọt ngào trong vị ngọt đậm của mật hoa, của tình yêu đang độ chín; là cảnh hoa cỏ mùa xuân, một đỏ thắm, một xanh rì, tạo nên bức tranh hài hòa cân đối, như đôi vợ chồng tương kính như tân thuở xưa vậy; thêm cảnh "lá với cành tơ phơ phất" uyển chuyển, mỡ màng như mời gọi, khiến người ta không khỏi khát khao, vui mắt; lại thêm cả "khúc tình si" rộn ràng của cặp yến anh đang chìm đắm trong tình yêu nữa, thì bức tranh xuân đúng đủ sắc, hương, vị. Và trước khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, Xuân Diệu không quên đưa vào chút ánh sáng ấm áp, phủ lên toàn bộ không gian, đem đến một vẻ đẹp chan hòa, dễ chịu, khiến người ta chỉ muốn hòa mình vào trong đó. Không chỉ vậy "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi", người ta còn nhìn ra được chút ý vị tình tứ rất tinh tế, một thiếu nữ trẻ trung đang tắm mình dưới nắng xuân để tô đậm thêm cái vẻ xuân sắc của mình, rèm mi nàng ánh lên trong nắng sớm, mang đến vẻ tinh khôi khiến trái tim thi sĩ không khỏi lạc nhịp. Đứng trước vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên mùa xuân, Xuân Diệu lại càng ý thức được tuổi trẻ, người thấy hãnh diện, thấy tự hào vì bản thân mình có thể ôm ấp và tận hưởng mùa xuân một cách trọn vẹn và sung sướng đến thế. Để giờ đây, dường như có một chân lý đã bừng lên trong trái tim người thi sĩ trẻ rằng "mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa", tức mỗi ngày được thức dậy được tận hưởng cuộc sống đối với Xuân Diệu đã là một niềm vui to lớn, khiến ông mãn nguyện, hài lòng. Sự chuyển đổi cảm xúc trong câu "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần" chính là điểm nhấn đầy ấn tượng mà Xuân Diệu đã mang đến cho độc giả. Tháng Giêng tháng của mùa xuân, tháng đẹp nhất trong năm và Xuân Diệu như một thực khách tham lam, không cam chịu việc chỉ được ngắm nhìn, được nếm thử chút mật ngọt, hít thử chút hương thơm, mà người còn muốn cắn nuốt nó vào bụng để giữ cho riêng mình. Đôi lúc người ta bảo rằng Xuân Diệu là đứa trẻ dễ sợ, dễ dỗi, nhưng cũng rất dễ dỗ, chỉ cần một cái kẹo ngọt thấm hơi xuân thì ông đã mỉm cười hạnh phúc lắm. Quả thực vậy, thế giới có biết bao điều tốt đẹp, bao người có ước mơ lý tưởng cao xa, viễn vọng nhưng chỉ mình Xuân Diệu có niềm tha thiết đặc biệt với mùa xuân, xem mùa xuân là món quà tuyệt nhất của tạo hóa, phát hiện chân lý cái đẹp ngự trị ở chính bên cạnh mỗi chúng ta. Suy nghĩ ấy thật giản đơn và đáng quý vô cùng.
Nói Xuân Diệu dễ lo, dễ dỗi cũng phải, bởi mới trước đó người còn sung sướng, tha thiết vô hạn với bàn tiệc đến từ thiên nhiên, thế mà ngay lập tức người đã quay ra chiều lo lắng "Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân". Đang phiêu bồng, lãng mạn, đang say mê giữa bàn tiệc xuân, nhưng tiệc còn chan chứa mà người đã "vội vàng" tiếc nhớ, thi nhân thế mà lại rơi và nỗi sợ, sợ mùa hạ đến, ngay giữa lúc còn ở tháng Giêng xuân sắc. Người ta sẽ nghĩ Xuân Diệu kỳ lạ quá, chỉ được cái lo xa, nhưng thực sự khi đọc những dòng thơ tiếp chúng ta mới nhận ra rằng thi nhân lo lắng cũng có nguyên do cả.
"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;"
Hóa ra Xuân Diệu đã nhận ra một quy luật tàn nhẫn của tạo hóa, của thời gian, rằng mùa xuân của thiên nhiên thì vĩnh viễn tuần hoàn, nhưng bản thân người nghệ sĩ thì không thoát khỏi quy luật của tạo hóa, sự tàn phá của thời gian. Mùa xuân vĩnh viễn đẹp như thế, nhưng thi nhân lại chẳng thể sống mãi muôn đời để tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời của mùa xuân. Thế nên ngay trong giữa mùa xuân người thi sĩ đã ngỡ ngàng, sung sướng, rồi ngay sau đó lại chuyển sang hoang mang, buồn bã và cuối cùng là sự tiếc nuối vô hạn, khi bản thân bất lực trước vũ trụ. Xuân Diệu biết rõ bản thân mình không thể thay đổi được quy luật "sinh - lão - bệnh - tử" của con người, một ngày này đó người sẽ biến mất trên cuộc đời này thế nên không khỏi bâng khuâng "tiếc cả đất trời". Từ đó ta cũng nhận ra rằng bản thân Xuân Diệu không chỉ ham muốn hưởng thụ mùa xuân, mà người còn khát khao tất cả những gì tạo hóa ban tặng trong trời đất, cùng với tình yêu, lòng trân trọng từng phút giây của cuộc sống vô cùng sâu nặng, thiết tha.
Trước viễn cảnh phũ phàng và tàn nhẫn của tạo hóa như vậy, nhưng Xuân Diệu không phải là người giữ nỗi đau tiếc trong lòng lâu hay dễ bị khuất phục, ông đã nhanh chóng tìm cho mình một giải pháp hoàn hảo và hợp lý vô cùng. Nó lại khác hẳn cái giải pháp ngông cuồng, ngây thơ và bất khả thi trong 4 câu thơ đầu tiên.
"Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Xuân Diệu lúc nào cũng vội vã, người vội vã hòa vào bữa tiệc xuân, vội vã buồn, rồi lại vội vã thức tỉnh và mau chóng thực hiện giải pháp của mình với giọng thơ đầy hối thúc như sợ chậm nữa thôi là sẽ không còn kịp nữa. So với ban đầu lúc này đây nhận thức của Xuân Diệu về giá trị của mùa xuân càng thêm sâu sắc, chỉ ông mới hiểu những mùa xuân lần lượt trải qua trong đời ta nó trân quý đến độ nào và người ta không thể và cũng không được phép lãng phí nó. Thế nên thay vì tận hưởng một, thì thi sĩ đã dùng mọi sức lực mọi khả năng thức nhọn tất cả các giác quan, mở rộng cánh cửa tâm hồn để tận hưởng mùa xuân lên gấp nhiều lần. Người quan niệm rằng sống phải sống sao cho trọn, thứ mình yêu ngay trước mặt, tội gì không chiếm lấy, cái ý thức mãnh liệt ấy được nhà thơ bộc lộ qua các động từ mang sắc thái mạnh như "riết", "say", "thâu", "hôn nhiều", rất nồng nàn tha thiết. Tưởng như cả mùa xuân đều bị Xuân Diệu chiếm lấy, để thưởng thức một cách tham lam, tràn trề. Ông muốn đắm chìm trong say sưa trong mùi thơm, tận hưởng thật tột cùng ánh sáng, cho "no nê thanh sắc của thời tươi", thậm chí còn muốn cắn nuốt cả mùa xuân vào trong bụng, để thưởng thức cho tận cái mùa xuân tươi đẹp trước mắt. Nói dễ hiểu thì Xuân Diệu biết con người chỉ sống được một đời, suy ra nếu ta cố gắng tận hưởng no say vẻ xuân sắc của cuộc sống hiện tại thì cũng chẳng khác là bao việc ta được sống nhiều lần là mấy. Hơn thế nữa cái khát khao chiếm giữ, tận hưởng nồng nàn tha thiết này nó lại còn là một cái thú, một niềm vui sướng tột cùng mà không phải ai cũng thấu hiểu được.
Vội vàng là minh chứng rõ nét nhất cho tấm lòng sâu nặng, tha thiết với mùa xuân tình yêu và tuổi trẻ của Xuân Diệu, người đến với đời bằng một giọng thơ yêu đời, yêu sống đầy thấm thía, khiến các thi nhân cùng thời không khỏi cảm thấy xa lạ, bỡ ngỡ về một hồn thơ quá đỗi sôi nổi, cuồng nhiệt. Nhưng mãi rồi người ta cũng thấy quen và người ta dần thấu hiểu cái chất thơ Pháp lãng mạn nhưng luôn dáng dấp mềm mại của văn chương Việt Nam. Xuân Diệu khi buồn cũng vậy, khi vui cũng vậy, thơ người lúc nào cũng nồng nàn, rạo rực, một hồn thơ trẻ mãi không già, tình tứ tận trăm năm.