Bài tham khảo số 1

Kim Lân đã khắc họa đậm nét hình ảnh người nông dân Việt Nam ân tình, thủy chung trong trang văn của mình nhưng có lẽ thành công hơn cả là nhân vật ông Hai, một lão nông hết lòng yêu làng, yêu nước trong truyện ngắn Làng. Ấn tượng nhất, thể hiện phong cách tài hoa của Kim Lân chính là nghệ thuật miêu tả tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai từ lúc ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc cho đến hết câu chuyện.


Ông Hai vốn rất yêu cái làng chợ Dầu của mình. Vì kháng chiến, ông phải lên nơi tản cư và mang theo trong lòng hình ảnh que hương sâu đậm. Mỗi khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “con mắt ông sáng hắt lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta. Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cầm quốc kỳ trên tháp rùa. Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên quan hai bốt ngay giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên”. Đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.


Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông. Ông “sững sờ, cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin. Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ cổ cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường” rệu ra cả tâm hồn. Rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ dàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”.


Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.


Khi nghe tin làng Dầu theo giặc, tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông Hai đã có một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Trước đây, ông yêu làng là yêu bằng cái tình cảm cố hữu của người nông dân đối với nơi chôn nhau cắt rốn. Người Việt Nam ai mà chẳng thế. Ông yêu làng và ông yêu nước nữa. Thế nhưng, tình yêu nước và ý thức bảo vệ đất nước nó chưa thực sự rõ ràng và quyết liệt. Lúc còn ở làng, ông cũng hăng hái cùng anh em đồng chí đi đào hào, đắp ụ, dựng bốt chống giặc. Thế nhưng, việc làm ấy là để bảo vệ làng mà thôi.


Nhìn kỹ ta sẽ thấy rõ, ông hai yêu cái đẹp của làng và quan trọng hơn, ông yêu cái tinh thần kháng chiến của làng. Đó mới là giá trị đích thực khiến ông yêu quý và gìn giữ. Thế nên, khi nghe tin “làng chợ Dầu theo giặc”, ông hai như chết lặng trong người. Làng theo giặc thì cái đẹp của làng vẫn còn nhưng cái tinh thần kháng chiến của làng thì mất rồi. Nó mất rồi nên mới khiến ông đau đớn, tủi nhục và xót xa.


Cái giá trị mà ông tôn thờ, yêu quý và gìn giữ bấy lâu nay đã không còn nữa, liệu ông Hai có còn yêu làng nữa không? Sau một cuộc tự đấu tranh kịch liệt, ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”. Tình yêu làng nước đã rộng lớn hơn bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù xác định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.


Tình cảm của ông đối với làng kẻ từ khi cái tin dữ ấy bùng đến liên tục bị thách thức. Khi mụ chủ nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Đi đâu bây giờ! Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý nghĩa “hay là trở về làng”. Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trong làm sao bởi đó là nỗi đau của một con người danh dự của Làng như chính bản thân mình. Đó cũng là một suy nghĩ thường tình khi con người ta không còn chốn nương thân, quê hương chính là nơi để trở về. Người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương nhưng không thể nào tách quê hương ra khỏi con người.


Tuy nhiên ông mạnh dạn đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bỏi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ“. Thì ra, ông Hai nghĩ đến cụ Hồ, nghĩ đến kháng chiến nhiều hơn là nghĩ cho bản thân mình. Nhưng, bản thân chưa lo nổi, lấy gì để lo cho đất nước đây? Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.


Đau khổ, ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng chợ Dầu, ông muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ. Đó cũng chính là tấm lòng thuỷ chung “trước sau như một” với cách mạng của ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai – một người nông dân, đối với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến.


Thật may mắn cho ông Hai, cuối cùng, cái tim làng chợ Dầu theo giặc cũng được cải chính. Chính ông chủ tịch xã nơi tản cư báo cho ông chứ không phải ai khác. Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.


Đến đây, có thể thấy rõ ràng rằng, đích thực ông Hai yêu cái làng chợ Dầu là yêu cái làng kháng chiến, yêu những con người một lòng đi với cách mạng, với đất nước chứ chưa hẳn là chỉ yêu cái đẹp, cái giàu của nó hay yêu cái nhà của mình. Bởi thế, khi cái đẹp của làng bị giặc hủy hoại, cái nhà của ông bị đốt, ông vẫn vui. Thậm chí là rất vui, rất tự hào.


Truyện ngắn Làng đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết. Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống gây cấn, đầy thử thách góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhụy mà đặc sắc, hết sức gợi cảm đã thể hiện bức chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.

Hình minh hoạ
Hình minh hoạ

xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |