Bài soạn "Tràng giang" của Huy Cận số 3
I. TÁC GIẢ
Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà thơ sáng tác từ 1934, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn Pháp, nhưng ông cũng thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Năm 1936, Huy Cận gặp Xuân Diệu ở Huế và hai người từ đó đã thành đôi bạn thơ tri kỉ. Nhà thơ là một trong những nhà thơ mới nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ Lửa thiêng xuất bản năm 1940. Trong tập thơ này, nhà thơ trở về cái tôi trong nỗi cô đơn buồn ảo não, tuy có le lói một vài tia lửa của tình yêu cuộc sống.
Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận tham gia nhiều công tác xã hội nhưng vẫn sáng tác đều đặn và xuất bản nhiều tập thơ, tiêu biểu là Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960) và Bài thơ cuộc đời (1963)... Lúc này thơ ông tràn ngập niềm vui, đầy cả hoa và nắng.
II. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Bài thơ Tràng giang (chứ không phải là Trường giang vì tràng có âm a nên âm hưởng của hai tiếng tràng giang gợi cái rộng, cái dài của sông nước hơn là hai tiếng trường giang) rút ra từ tập Lửa thiêng (1940) của Huy Cận.
Trong Tác phẩm văn học 1930-1945, tập II Huy Cận kể lại là vào một buổi chiều chủ nhật mùa thu năm 1930, lúc đó ông đang là sinh viên trường Canh nông, trong lúc đứng ngắm con sông Hồng mênh mông tại bến đò Chèm, do xúc động trước cảnh trời nước bao la ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ Tràng giang này.
III. PHÂN TÍCH
Bài Tràng giang thể hiện một nỗi sầu mênh mông xa vắng dâng lên lúc hoàng hôn, khi Huy Cận đứng trước cảnh “cô liêu” của sông dài, trời rộng. Từng câu chữ trang trọng cổ kính gợi lên một nỗi nhớ bâng khuâng man mác: nhớ nhà, nhớ quê hương đất nước.
Ngay từ câu mở đầu, hình ảnh của tràng giang đã hiện lên trong dậpdềnh sóng nước dung chứa nỗi sầu của thi nhân triền miên lớp lớp:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Câu thơ tả sóng. Sóng triền miên trên mặt tràng giang. Từ điệp điệp tạo nên hình ảnh nghìn trùng, lớp lớp của một nỗi buồn dây dưa không dứt. Xưa nay, các nhà văn, nhà thơ thường dùng “trùng điệp” hay “trùng trùng điệp điệp” để chỉ vật thể gì nhiều và cụ thể như núi non. Ở đây, nhà thơ không nói sóng điệp trùng mà nói “buồn điệp diệp”. Đó là lối sáng tạo trong việc dùng từ hình ảnh hóa nỗi buồn. Nhìn mặt tràng giang gợn những lớp sóng, nhà thơ tưởng như cũng cảm thấy nỗi sầu của mình trải ra như những lớp sóng nối nhau triền miên không dứt. Giữa khung cảnh rộng lớn đó là hình ảnh một con thuyền trên sông, thuyền và nước song song:
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Hai cặp từ láy “điệp diệp” và “song song” gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Nỗi buồn ấy dường như đã tăng lên do sự nghịch chiều nhau giữa thuyền và nước:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả.
Nước và thuyền nghịch chiều nhau nghĩa là chỉ có hai chiều, hai hướng: “thuyền về nước lại”, thế mà lại tạo nên một nỗi “sầu trăm ngả”. Đặc biệt là hình ảnh bập bềnh trôi giạt không biết về đâu của một cành củi trong câu cuối khổ thơ:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Các thi liệu sóng, nước, thuyền... đều rất quen thuộc trong thơ văn, duy chỉ cành củi khô là rất mới và đầy ý vị. Hình ảnh này cho thấy sự cô độc, lạc loài, khô héo đặc biệt là khô héo giữa sự ướt át của nước. Những số từ trăm, một, mấy... liên kết nhau gợi lên chút gì buồn bã, trơ vơ và li biệt.
Từng câu chữ, từng hình ảnh ở đây đều đặc sắc ở chỗ vừa gợi tả tràng giang vừa chứa cả tâm sự buồn bã của thi nhân.
Không gian của nỗi buồn tiếp đó được mở rộng ra từ mặt tràng giang lan tỏa sang đôi bờ và cao vút lên theo tia nắng của khoảnh khắc ngày tàn đến với bầu trời xa thẳm:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Đầu tiên là cảnh trên sông với những “cồn nhỏ lơ thơ”. Lơ thơ là từ gợi hình ảnh, đìu hiu là từ gợi cảm giác. Cả hai từ láy ấy khiến người đọc dễ hình dung ra cảnh một bến sông hiu hắt và cô quạnh, gợi lại các câu thơ cổ nổi tiếng:
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
(Chinh phụ ngâm)
Lơ thơ tơ liễu buông mành.
(Truyện Kiều)
Nỗi buồn ở đây được gợi lên từ sự vắng vẻ của cảnh vật qua những tiếng lao xao của một buổi chợ chiều từ làng xa nào đó vẳng lại. Đây là những âm thanh nhỏ bé, mơ hồ, nửa hư nửa thực, gợi lên một không gian trống vắng, chia lìa của giây phút tàn tạ, phôi phai. Nhà thơ Xuân Diệu có lần giải thích: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” theo tác giả khi ấy muốn là “có đâu”, “đâu có” tiếng làng xa vãn chợ vì tâm lí của nhà thơ trữ tình công khai trước Cách mạng là nói nỗi buồn. Như vậy, tất cả đều vắng lặng, quạnh hiu và những hình ảnh “lơ thơ cồn nhỏ”, “nắng xuống trời lên”, “sâu chót vót”, “gió đìu hiu”... đều chỉ là đôi nét chấm phá điểm thêm, nhằm tô đậm cái thần thái của khung cảnh “Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Nói “bến cô liêu” cũng là nói “hồn cô liêu” hay “hồn đơn chiếc” như có lần nhà thơ đã viết: Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc. “Có lẽ đêm nay cũng ngủ... nhờ”.
Chính nỗi buồn cô đơn và sự rợn ngợp trước vũ trụ bao la ấy đã dẫn Huy Cận đến một khung cảnh tưởng như không có một dấu vết nào của sự sống:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trước mắt nhà thơ lúc này là một tràng giang mênh mang, dằng dặc không có lấy một chuyến đò ngang. Cũng không hề có một nhịp cầu nào nối liền đôi bờ vắng lặng. Trên mặt sông dài chỉ có bèo giạt, những cánh bèo trôi giạt trong thơ khác chi dấu hỏi: “Bèo giạt về đâu hàng nối hàng?” Cái hình ảnh nổi trôi vô định này đã đẩy khung cảnh bãi bãi bờ bờ lặng lẽ kia đến cõi mông lung cùng cực.
Những cụm bèo trôi giạt trong thơ gợi người đọc nhớ đến nỗi buồn của một lớp nhà thơ thời nước mất chưa tìm được hướng đi cho mình và cũng chưa làm được gì hữu ích cho đời như Huy Cận. Từ đây ta hiểu được chút lòng yêu nước thầm kín của ông, tuy thầm kín nhưng cũng không kém phần thiết tha thắm đượm.
Trong cảnh chiều xuống, nỗi buồn cô đơn cứ dâng cao trước vũ trụ vô cùng và hóa thành nỗi nhớ nhà sâu thẳm và vời vợi trong khổ thơ cuối:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lúc này mặt trời đã xuống thấp, những đám mây trắng đùn lên ở phía chân trời phản chiếu ánh chiều lấp lánh trông như núi bạc. Thuở xưa trong bài Thu hứng, Đỗ Phủ từng viết:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Nguyễn Công Trứ dịch là:
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
Mặt đất may đùn cửa ải xa.
Trước cảnh sông nước, mây trời bao la, bóng chiều nặng nề sa xuống, lại hiện lên hình ảnh một con chim non nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Đặc biệt là trên mặt tràng giang tuy không có khói sóng mà lòng thi nhân vẫn nhớ nhà, nhớ quê da diết. Hồn Đường thi và ý vị cổ điển vang hưởng từ từng câu chữ của bài thơ cổ phong biến thể và nhất là hiện rõ lên trong hai câu thơ kết. Thuở xưa, Thôi Hiệu đời Đường nhìn khói sóng nhớ đến quê nhà:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Tản Đà dịch:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Do vậy mà nhà thơ Huy Cận thường nói vui rằng cảnh trên sông khói sóng làm cho Thôi Hiệu buồn nhớ quê, còn ông thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương. Nhà thơ bảo vì ông buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường.
Tràng giang là một bài thơ đặc sắc đã kết hợp được thơ ca truyền thống những nét cổ điển của Đường thi với những nét hiện đại. Bài thơ đậm đà tính dân tộc và rất Việt Nam. Từ hình ảnh dòng sông, con thuyền, cành củi khô, cánh bèo trôi giạt, chợ chiều làng xa., tất cả đều gắn bó ruột thịt, từ lâu đời đã ăn sâu vào trái tim khối óc của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét rất xác đáng về bài thơ này: Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc.
GỢI Ý THÊM
Câu 1. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ Tràng giang là bức tranh bao la rộng lớn của cảnh trời nước mênh mông. Bức tranh đó tuy đẹp mà buồn quạnh vắng và cô liêu, một bức tranh mang màu sắc cổ điển mà hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 2. Có người nhận xét: cảnh sông dài trời rộng lúc chiều tà trong bài thơ này vừa có dáng dấp cổ kính thường gặp trong thơ Đường, vừa gần gũi thân thuộc đối với người Việt Nam. Nhận xét này rất xác đáng. Cả bài thơ Tràng giang đượm đầy tính chất trang nghiêm cổ kính, đậm đà phong vị thơ Đường nhưng cũng rất mới mẻ hiện đại. Tính chất cổ điển của bài thơ trước hết thể hiện ở cảm hứng con người một mình đối mặt với vũ trụ để nhận về cái hữu hạn của kiếp người và cái vĩnh viễn vô cùng vô hạn của không gian thời gian. Cổ điển ở chỗ học tập người xưa: từ chỗ học được chữ đìu hiu của Chinh phụ ngâm, chữ đùn trong bài dịch thơ Đỗ Phủ đến chỗ lấy ý thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu. Tuy vậy, cảnh vật trong bài thơ Tràng giang cũng hết sức cụ thể, chân thực và gần gũi với cuộc sống thường ngày từ hình ảnh cành củi khô, cồn đất đến cánh bèo trôi giạt.
Bức tranh Tràng giang còn đậm đà phong vị dân tộc. Tuy tựa bài thơ gợi người đọc nhớ đến dòng Trường giang vạn dặm dài thăm thẳm ở Trung Quốc, nhưng bức tranh thiên nhiên ở đây từ dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo trôi giạt lênh đênh, chợ chiều làng quê đến cánh chim nhỏ trong buổi chiều tà... đều là những hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi với mỗi con người Việt Nam chúng ta.
Câu 3. Qua bài thơ Tràng giang, ta thấy tâm trạng buồn thương của Huy Cận. Đó là một nỗi buồn thương mênh mông trước cảnh sông nước bao la mở ra bằng buồn điệp điệp, sầu trăm ngả và kết thúc bằng lòng quê dợn dợn. Đúng như có lần nhà thơ tự họa: “Có chàng ngơ ngác tựa gà trống. E đến trăm năm còn trẻ thơ” (Gánh xiếc). Với cái nhìn “còn trẻ thơ”, Huy Cận ngơ ngác nhìn bức tranh sông nước trước mắt mình từ làn sóng gợn, con thuyền xuôi, cành củi trôi dật dờ, cánh bèo giạt, cồn nhỏ, làng xa, chợ chiều, nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, bến vắng đến mây cao, núi bạc, chim nghiêng cánh, bóng chiều sa và cảm thấy buồn thương cô tịch, tâm tình của một lữ khách “thiếu quê hương”. Đối diện với cái vô cùng, vô tận của trời đất, nhà thơ càng hiểu sâu sắc cái hữu hạn của đời người, thấm thía trong “một chiếc linh hồn nhỏ” của mình một mối “mang mang vạn cổ sầu” rất riêng của ông.
Tràng giang còn bộc lộ một tâm hồn tinh tế tài hoa và đặc biệt là kín đáo, tỏ bày một tình cảm yêu mến thiết tha với cảnh sắc quê hương đất nước, về điều này, Xuân Diệu nhận xét “Tràng giang là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Câu 4. Nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật của bản thân Tràng giang là mang màu sắc cổ điển mà hiện đại đậm đà phong vị dân tộc, được viết bằng lối thơ 7 chữ niêm vận chặt chẽ như thơ Đường luật, dồi dào nhạc điệu, ngôn từ hàm súc tinh tế, bài thơ đến nay mãi còn âm vang trong lòng người đọc.
Câu 5. Tràng giang của Huy Cận là nỗi buồn cô đơn lạc lõng của nhà thơ khi đối mặt với trời nước mênh mang cao rộng khôn cùng, tư tưởng chủ đạo ấy được khái quát trong bốn câu đặc sắc của khổ kết:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hai câu đầu là một bức tranh thiên nhiên tráng lệ đối lập giữa cái mênh mông dài rộng với cái bé nhỏ cô đơn: “lớp lớp mây cao - chim nghiêng cánh nhỏ”. Điều này làm cho cảnh vật thoáng hơn, rộng hơn nhưng cũng buồn hơn.
Hai câu kết trên đầy tâm trạng. Nhà thơ cho rằng lòng nhớ quê nhà đã được ấp ủ, nấu nung bao lâu rồi nên chẳng cần ngoại cảnh khơi gợi như Thôi Hiệu nữa. Thôi Hiệu xưa nhìn khói sóng chạnh nhớ đến quê nhà. Ngày nay, Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn dợn dạn. Điều này cho thấy nỗi nhớ quê nhà ở đây thật da diết và cháy bỏng... Vì lẽ này, trong sâu xa Tràng giang là một bài tha ca hát non sông đất nước, do dó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc.