Bài soạn "Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức" số 6
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Nội dung:
Tiếng Việt là tài sản văn hóa tinh thần vô giá của người Việt Nam. Vì vậy, cần phải được bảo tồn và phát triển làm cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp và phong phú. Đây là quan niệm đúng đắn và mang giá trị thực tiễn cao của nhà cách mạng yêu nước Nguyễn An Ninh.
Nghệ thuật:
Bài chính luận có lập luận rất chặt chẽ và có sức thuyết phục cao.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1: SGK – 91
Trong bài văn, Nguyễn An Ninh đã cực lực phê phán những kiểu học đòi chạy theo "Tây hoá":
- Đó là việc: "Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình", bởi họ cho đó là "một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc".
- Nhiều người khác lại bắt chước những "kiểu kiến trúc và trang trí lai căng" của phương Tây. Theo tác giả: "Nhiều người An Nam bị Tây hoá hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của phong hoá châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương". Tuy nhiên, thực tê thì họ "chẳng có được một thứ văn minh nào". Không những thế, "Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng".
Câu 2: SGK – 91
Theo tác giả, tiếng nói vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc. "Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị".
Nhận định của tác giả là hoàn toàn có căn cứ bởi:
+ Tiếng nói là tinh thần của dân tộc, là văn hoá của dân tộc và như chính tác giả đã khảng định: "Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi... Vì thế đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình.
Câu 3: SGK – 91
Tác giả đưa ra dẫn chứng để khẳng định rằng tiếng nước mình không nghèo nàn:
- “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Tác giả đặt ra câu hỏi để khẳng định, ngôn ngữ của Nguyễn Du
+ Ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều một kiệt tác văn chương được đánh giá đã thể hiện một cách sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người.
- Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”. Một sự suy luận logic và hoàn toàn có lí.
- “Ở An Nam cũng như mọi người khác đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”.
Câu 4: SGK – 91
Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí còn khuyến khích việc “để cho đồng bào họ cũng phải được thông phần nữa”. Việc biết thêm ngôn ngữ nước ngoài phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình.
Tiếng nước ngoài là cần thiết đối với mỗi người. Vai trò hướng đạo của giới trí thức buộc phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu. Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
Tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình.
Câu 5: SGK – 91
Quan niệm của tác giả đưa ra: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian” là đúng đắn trong hoàn cảnh đất nước đang bị thực dân thống trị. Tuy nhiên, nếu muốn giải phóng dân tộc, quan niệm của Nguyễn An Ninh đưa ra cần phải biết kết hợp các yếu tố khác như Đường lối của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng.