Bài soạn "Mùa xuân của tôi" của Vũ Bằng số 4
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Vũ Bằng trong SGK Ngữ văn 7 Tập 1).
2. Tác phẩm
Văn bản Mùa xuân của tôi được viết theo thể loại tùy bút, được trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút – bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Bài văn được viết trong cảm hứng của một người xa quê, nhớ về mùa xuân gợi cảm nơi đất Bắc.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Bài văn viết về cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội.
* Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả khi viết bài này là tác giả đang ở Sài Gòn trước 1975 trong sự kiểm soát của Mĩ ngụy, sống xa quê hương, xa mảnh đất Hà Nội thân yêu.
=> Tâm trạng nhớ thương quê hương da diết của người con sống ở phương Nam nhớ về đất Bắc.
Câu 2:
* Bài văn có thể được chia làm 3 đoạn:
Đoạn 1: từ đầu => “mê luyến mùa xuân” : Những cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân.
Đoạn 2: tiếp => “mở hội liên hoan” : Cảm nhận về cảnh sắc và không khí chung của mùa xuân ở Hà Nội miền Bắc.
Đoạn 3: còn lại : Cảnh sắc và không khí mùa xuân sau ngày rằm tháng giêng.
Ba đoạn văn trên liên kết với nhau bằng mạch cảm xúc: từ những quy luật tình cảm chung của con người đến những cảm nhận riêng về mùa xuân, và cuối cùng là những cảm xúc sâu sắc về tháng giêng.
=> Mạch cảm xúc tự nhiên, có tính logic.
Câu 3:
Đoạn văn từ “Tôi yêu sông xanh, núi tím” đến “mở hội liên hoan”.
a) Cảnh sắc mùa xuân Hà Nội và miền Bắc đã được gợi tả qua nhiều chi tiết.
* Cảnh sắc đất trời:
Màu sông xanh, núi tím đắm say mộng ước
Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, đường sá không lầy lội, cái rét ngọt ngào
Âm thanh của tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo, nhất là tiếng hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng
* Cảnh xuân đến với con người:
Nghi lễ đón xuân: nhang trầm, đèn nến trên bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên
Không khí gia đình: đoàn tụ, sum họp đầy đủ, trên kính dưới nhường
Thấy lòng ấm lạ lùng, vui như mở hội liên hoan
=> Đây là những nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của con người, là nét văn hóa truyền thống của thủ đô Hà Nội và của con người Việt Nam mỗi dịp tết đến, xuân về.
b)
* Mùa xuân đã khơi dậy sức sống trong thiên nhiên và con người được nhà văn thể hiện bằng những hình ảnh đầy gợi cảm và những so sánh rất cụ thể: “nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối phải trồi ra thành những cái la nhỏ li ti”.
* Những tình cảm trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng tác giả khi mùa xuân đến là sức sống mới, là nhựa sống căng tràn.
c) Giọng điệu và ngôn ngữ của đoạn văn này: giọng điệu vừa sôi nổi, vừa tha thiết, ngôn ngữ chắt lọc, gợi cảm.
Câu 4:
Đoạn văn “Đẹp quá đi” đến hết.
a) Không khí và cảnh sắc thiên nhiên từ sau ngày rằm tháng giêng qua sự miêu tả của tác giả:
* Không khí:
Bữa cơm đã trở về giản dị như ngày thường, thịt mỡ dưa hành đã hết
Cánh màn điều treo ở bàn thờ ông vải đã được hạ xuống
Những trò vui tạm kết thúc, nhường chỗ cho cuộc sống thường nhật
* Cảnh sắc thiên nhiên:
Đào hơi phai nhưng nhụy hãy còn phong
Cỏ không mướt xanh nhưng nức một mùi hương man mác
Mưa phùn đã được thay thế bằng những cơn mưa xuân
Bầu trời hiện lên những làn sáng hồng hồng
=> Không khí sinh hoạt của con người đã trở về cuộc sống sinh hoạt thường nhật nhưng cảnh vật thiên nhiên dù có thay đổi chút ít nhưng vẫn đẹp, vẫn làm say đắm lòng người bởi cái mới mẻ, cái sức sống của nó.
b) Qua việc tái hiện những cảnh sắc và không khí ấy, có thể thấy rằng, chính tình yêu và nỗi nhớ da diết cháy bỏng đã làm thức dậy bao nỗi niềm trong tâm hồn của nhà văn, từ đó đã khiến cho ngòi bút của ông trở nên tinh tế hơn và nhạy cảm hơn.
Câu 5:
Qua ngòi bút tài hoa, tinh tế của tác giả, cảnh sắc mùa xuân của miền Bắc được tái hiện lại với những ấn tượng êm đềm, dịu ngọt, những cảm nhận tinh tế mà chỉ những người xa quê, yêu quê hương tha thiết mới có được. Cảnh mùa xuân trên đất Bắc thật đẹp, là sự giao hòa của trời đất, của lòng người và của sức sống, của tình yêu.