Bài soạn "Lưu biệt khi xuất dương" số 5
A.KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả:
Phan Bội Châu (1867 - 1940)
Quê: Đan Nhiễm – Nam Đàn – Nghệ An.
Là một người yêu nước và cách mạng “vị anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”. Phan Bội Châu là người khởi xướng, là ngọn cờ đầu của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam, trong khoảng 20 năm đầu của thế kỉ XX.
Là nhà thơ, nhà văn, là người khởi nguồn cho loại văn chương trữ tình.
2. Tóm tắt tác phẩm:
Viết trong buổi chia tay với bạn bè lên đường sang Nhật Bản.Tình hình chính trị trong nước đen tối, các phong trào yêu nước thất bại, ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài tràn vào. Là trai tài của dân tộc phải ra đi tìm đường cứu nước. Tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" thể hiện sự hào hùng táo bạo của các trí sĩ Cách mạng trong hành trình cứu nước gian khổ. Bài thơ đã làm nổi bật được ý thức trách nhiệm của những con người đang hừng hực khí thế hoài bão về một nước nhà độc lập. Cũng trong tác phẩm này tác giả cũng cho thấy một tinh thần quyết liệt của những chí sĩ Cách mạng, tư thế hiên ngang buổi lên đường cứu nước.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Đọc tiểu dẫn chú ý bối cảnh lịch sử đất nước và những ảnh hưởng từ nước ngoài để hiểu bài thơ.
Bài làm:
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là vào lúc tình hình chính trị trong nước hết sức rối ren. Chủ quyền đất nước hoàn toàn mất vào tay giặc. Phong trào vũ trang chống Pháp theo con đường Cần Vương đã thất bại không có cơ hội cứu vãn, chế độ phong kiến đã lỗi thời không còn phù hợp với tình cảnh đất nước lúc bấy giờ, bao anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước đã hi sinh, … Tình hình đó đặt ra trước mắt các nhà yêu nước một câu hỏi lớn, đầy day dứt: cứu nước bằng con đường nào?
Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài đang tràn vào Việt Nam ngày càng mạnh qua con đường Trung Hoa, Nhật Bản và trực tiếp từ Pháp, từ các nước phương Tây. Đang bế tắc, người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước với những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế,các nhà nho ưu tú của thời đại như Phan Bội Châu say sưa dấn bước, bất chấp nguy hiểm, gian lao mong tìm ra ánh bình minh cho Tổ Quốc.
Câu 2: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước?
Bài làm:
Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế tầm vóc của con người trong vũ trụ. Đó là một quan niệm của các nhà nho thời phong kiến cho rằng làm trai đứng giữa trời đất phải làm được việc lớn, phải hiên ngang, lừng lẫy. "Làm trai phải lạ ở trên đời" lạ ở đây tức là làm trai phải mưu đồ việc lớn, phải sống phi thường hiển hách, phải xoay chuyển càn khôn chứ không chấp nhận một cuộc sống bình thường. Phan Bội Châu nêu lên một chí làm trai vượt lên mưu đồ công danh để hướng tới những lý tưởng cao đẹp ở đời.
Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc: Trong câu thơ "há để càn khôn tự chuyển dời" tác giả cho thấy một quan điểm không chấp nhận thực tại. Nếu như quan điểm phong kiến cho rằng trời là thiên mệnh, mọi việc đều phải tuân theo mệnh trời do trời quyết định thì Phan Bội Châu không chấp nhận số phận chủ động xoay chuyển thời thế. Ngụ ý nói đến mục tiêu của nam nhi là phải tìm con đường cứu nước.
Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước vẫn tin điều xưa cũ. "Trong khoảng trăm năm còn có tớ" cái tôi ở đây không phải là cái tôi nhỏ bé mà là cái tôi đầy trách nhiệm với cuộc đời, cuộc đời cần ta để cống hiến. "Sau này muôn thuở há không ai?" một câu hỏi tu từ khẳng định chắc nịch vào vào khát vọng cống hiến hết với đời, sống hiển hách phi thường. Cùng đó Phan Bội Châu thể hiện niềm tin sắt đá vào bản thân và thế hệ tương lai. Hai câu thơ sau thể hiện sâu sắc nỗi đau mất nước, ý thức của thân phận không cam chịu:
"Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !"
Câu thơ thức tỉnh ý thức hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước. Chứ không thể nghe theo sách thánh hiền vì nó đã không còn phù hợp với tình hình đất nước lúc bấy giờ.
Khát vọng hành động và tư thế lên đường. Hình ảnh kì vĩ lớn lao "biển Đông", "cánh gió" muôn trùng "sóng bạc" tương ứng với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của Phan Bội Châu.Thể hiện khát vọng lên đường có một sức mạnh, khơi dậy nhiệt huyết của cả một thế hệ.
Câu 3: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu 6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa)?
Bài làm:
Hai câu thơ 6 và 8 trong bản dịch thơ so với nguyên tác có chút khác biệt:
Câu 6: Trong bản nguyên tác câu 6 là "Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi !" Tác giả chưa đến mức phủ nhận tất cả giá lý nho gia nhưng tác giả cho thấy một quan điển rõ ràng rằng sách vở, đạo đức nho gia đã từng là giường cột cho phong kiến Việt Nam đã không còn có thể giúp ích được cho ta trong buổi nước mất nhà tan. Ngược lại, nếu cứ khư khư nệ cũ, chìm đắm trong tư tưởng trung quân thì chỉ làm mình ngu thêm mà thôi. Tuy nhiên trong bản dịch thơ tác giả chỉ nêu được rằng "học cũng hoài' mới chỉ nêu được sự phủ định của Phan Bội Châu với Nho học chứ chưa làm nổi bật lên khí phách ngang tàng, dứt khoát của tác giả.
Câu 8: Trong nguyên tác câu thơ này là "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" những hình tượng vừa kì vĩ, lớn lao vừa lãng mạn. Như hòa nhập với con người trong tư thế cùng bay lên, thể hiện chất sử thi cuộn trào trong từng câu chữ. Câu này được dịch thành thơ "Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi" chưa thể hiện được khí thế hùng mạnh, bay bổng như nguyên tác nhưng cũng có thể hiện được sự thích thú của nhân vật trữ tình trước những khó khăn.
Câu 4: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Theo anh (chị), những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ này?
Bài làm:
Khát vọng sống hào hùng, mãnh liệt của nhân vật trữ tình.
Tư thế con người kì vĩ, đầy lãng mạn, sánh ngang cùng vũ trụ.
Khí phách ngang tàn, dám đương đầu với mọi thử thách.
Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng.