Bài soạn "Hầu trời" của Tản Đà số 3
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
I. Tác giả
1. Cuộc đời
- Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Bất Bạt, Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Tây).
- Xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo lối sống của tầng lớp tư sản thành thị.
- Ông học chữ Hán hồi nhỏ, nhưng sớm chuyển sang học chữ quốc ngữ và sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ.
- Tản Đà theo đuổi nghiệp khoa cử nhưng không thành. Ông sống với nghề viết văn. Cả cuộc đời ông là một bài thơ tuyệt đẹp vì con người ngoài đời dường như trùng lặp hoàn toàn với con người nghệ sĩ trong văn chương.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Sự nghiệp thơ văn của Tản Đà rất phong phú và đạt nhiều thành tựu, đáng kể nhất là các tác phẩm: Khối tình con I, II (1916,1918), Còn chơi (1921), Thơ Tản Đà (1925), Giấc mộng lớn (1928),...
3. Phong cách nghệ thuật
- Thơ văn Tản Đà thể hiện một cái tôi bay bổng, lãng mạn, thoát li rất tài hoa nhưng cũng rất ngông nghênh, ngạo nghễ.
- Thơ ông còn thấm đẫm tinh thần thơ ca dân tộc, đậm đà và ý nhị, tinh tế.
- Có thể xem thơ Tản Đà là cái gạch nối giữa thơ trung đại và hiện đại.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh xuất xứ
- Bài thơ Hầu trời in trong tập Còn chơi xuất bản năm 1921.
- Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
2. Nội dung chính
- “Hầu trời” của Tản Đà kể về chuyện ông được lên tiên để đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
- Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời nói chung.
3. Bố cục
Bài thơ có thể chia làm 3 phần:
- Phần 1 (khổ thơ đầu): giới thiệu về câu chuyện lên hầu trời.
- Phần 2 (tiếp... chợ Trời): thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe.
- Phần 3 (còn lại): Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời.
4. Một số ý kiến nhận định về Tản Đà và bài Hầu trời
- ...Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo. Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mươi năm trước đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa."...
(Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
- Bài Hầu trời, tôi phục nhất đoạn mở:
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng!
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng!
Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta"...
(Xuân Diệu - Lời giới thiệu - Tuyển tập Tản Đà - NXB Văn học, Hà Nội 1986)
Đọc - hiểu văn bản
Câu 1 - Trang 17 SGK
Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?
Trả lời:
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng "chẳng biết có hay không". Đó là một cách "nhập đề" lạ, một sự "hư cấu" nghệ thuật. Nó là cái cớ "hoàn hảo" để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cõi mộng" của mình. Cách vào đề như thế đã gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò của người đọc, vừa độc đáo, lại rất có duyên.
Tản Đà sử dụng hình thức câu khẳng định trong ba câu cuối khổ thơ đầu nhằm mục đích khẳng định việc lên tiên là sự thực, không phải là giấc mơ. Bằng cách vào đầu như thế tác giả đã gợi trí tò mò của người đọc bằng việc đan xen giữa hư và thực, giữa mộng và tỉnh. Nhờ đó, câu chuyện trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, không ai có thể bỏ qua.
Câu 2 - Trang 17 SGK
Tác giả đã kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Trả lời:
Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc (Đương cơn đắc ý đọc đã thích... - Văn dài hơi tốt ran cung mây!- Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay... - Chửa biết con in ra mấy mươi? - Văn đã giàu thay, lại lắm lối...).
Chư Tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà (Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi - Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày - Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng - Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay).
Ông Trời thì khen rất nhiệt thành:
Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tình như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa. Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã "cái tôi" đó. Tản Đà rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện. Vào đầu những năm 20, khi thơ phú nhà nho tàn cuộc mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên trong văn học Việt Nam đã dám mạnh dạn hiện diện bản ngã "cái tôi" đó. Giọng kể của Tản Đà rất phong phú, hóm hỉnh và có phần ngông nghênh, tự đắc.
Câu 3 - Trang 17 SGK
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?
Trả lời:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực, đó là đoạn:
"Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
[...]
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều".
Tản Đà là một nhà thơ giàu cảm hứng lãng mạn. Thế nhưng trong đoạn thơ này, nhà thơ lại nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó đã chứng tỏ, Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách khẳng định mình. Xúc động nhất trong đoạn thơ có lẽ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và cuộc đời của nhiều văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ (không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn, bị o ép nhiều chiều,...). Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà. Là một thi sĩ nổi tiếng tài hoa, thế nhưng gần như suốt đời, Tản Đà sống trong nghèo khổ, túng quẫn. Ông đã từng rơi vào cảnh:
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ
Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng sách nát và một be rượu.
Bức tranh hiện thực miêu tả trong bài thơ đã giúp chúng ta thêm hiểu vì sao Tản Đà thấy đời đáng chán (Trần thế nay em chán nửa rồi), vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời cao (Tri kỉ trông lên đứng tận trời), phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng Thượng đế, chư tiên,... để thỏa niềm khao khát. Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực thường đan cài khăng khít trong thơ ông như thế.
Câu 4 - Trang 17 SGK
Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật,...)
Trả lời:
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.
- Tản Đà không dùng các thể thơ cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt lục bát, song thất lục bát... mà dùng thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ như thơ trung đại.
- Giọng thơ khá linh hoạt giọng kể mang tính tự sự phối hợp với giọng trữ tình nhiều sắc điệu, khi hóm hỉnh hài hước, lúc sôi nổi phóng khoáng, khi lại ngậm ngùi chua chát. Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.
- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
Những tìm tòi nghệ thuật trên đây là hướng đi đúng đắn của Tản Đà để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần tới dấu chấm hết.
Luyện tập
Câu 1 - Trang 17 SGK
Bài Hầu trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.
Trả lời:
Tùy theo cảm nhận và tình cảm cá nhân mà học sinh có thể lựa chọn những câu thơ, ý tưởng thơ thú vị. Có thể tham khảo một số câu thơ, ý tưởng sau: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông". "Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:/ "Anh gánh lên đây bán chợ Trời" ...
Câu 2* - Trang 17 SGK
Anh (chị) hiểu thế nào là "ngông"? Cái "ngông" trong văn chương thường bộc lộ một thái độ sống như thế nào? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học). Cái "ngông" của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao?
Trả lời:
- "Ngông" chỉ sự khác thường. "Ngông" trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.
- Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái "ngông" của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tuân, Tản Đà,...
- Cái "ngông" của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:
+ Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.
+ Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.
+ Xem mình là một "trích tiên" bị "đày xuống hạ giới vì tội ngông".
+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành "thiên lương", một sứ mệnh cao cả.
+ Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân,...