Bài soạn "Chiều tối" của Hồ Chí Minh số 5
I. Đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh (1890 - 1969) xuất thân trong gia đình nhà nho yêu nước
- Thuở bé học chữ Hán sau đó học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa, văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn hóa, văn học phương Tây (Pháp) ⇒ hai dòng phương Đông và Phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn chương.
- Quá trình hoạt động cách mạng:
+ 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: hoạt động Cách mạng trên đất Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: chủ yếu hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ ở các nhà ngục Quảng Tây, Trung Quốc.
+ 2- 9 – 1945: đọc bản Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quí giá.
- Các tác phẩm chính:
+ văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966)…
+ truyện và kí: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những trog lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)…
+ thơ ca: tập thơ Nhật kí trong tù và nhiều bài thơ sáng tác tại Việt Bắc
- Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức
+ Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật.
+ Hồ Chí Minh đòi hỏi nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
II. Đôi nét về tác phẩm Chiều tối (Hồ Chí Minh)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Gới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng
- Cảm hứng được gợi lên bởi cuộc chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo
2. Bố cục
- Phần 1 (hai câu đầu): bức tranh thiên nhiên
- Phần 2 (hai câu cuối): bức tranh đời sống con người
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1:
Giữa bản dịch thơ với bản dịch nghĩa có những chỗ chưa sát với nguyên tác như:
- Câu 2: Bản dịch đã bỏ rơi nghĩa cô lẻ của đám mây
+ Cô vân: chòm mây lẻ loi -> Áng mây cô đơn, lẻ loi đang trôi chầm chậm giữa bầu trời cao rộng.
+ Mạn mạn: chậm chậm => sự trôi nổi, lặng lẽ, lững lờ
Ý cả câu: chòm mây lẻ trôi chậm chậm
+Bản dịch: Chòm mây trôi nhẹ
=> không diễn tả được vẻ đơn độc và nhịp
bay chậm chậm của chòm mây
- Câu 3:
+ Sơn thôn thiếu nữ => dịch: cô em làm mất sự trang trọng của câu thơ Đường, không phù hợp với phong cách nói của Bác
+ Dịch thừa chữ tối (trong nguyên tác không có chữ tối mà vẫn rõ ý tối => nguyên tác hàm súc và kín đáo hơn). Nó làm mất đi vẻ tự nhiên trong sáng tạo của Bác, cũng như mất đi ý vị "ý tại ngôn ngoại", hàm súc của thơ cổ.
=> Bản dịch tuy trôi chảy nhưng làm mất đi sự tự nhiên và sáng tạo trong thơ Bác.
Câu 2:
Bức tranh thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ trong 2 câu thơ đầu:
* Bức tranh thiên nhiên:
- Thời gian: Chiều tối
- Không gian: Bầu trời mênh mông
-> Miêu tả từ xa, tầm nhìn bao quát, rộng lớn.
- Hình ảnh (nhân hoá), mang tính tượng trưng, ước lệ.
+ Quyện điểu: con chim mỏi
-> Cánh chim sau một ngày rong ruổi, trong giờ khắc của ngày tàn đang về rừng tìm nơi tổ ấm. Không gian êm đềm, tĩnh lặng của tạo vật.
+ Cô vân: chòm mây cô đơn
-> Chòm mây gợi nên sự bát ngát, mênh mông. Đồng thời đó cũng là áng mây cô đơn, lẻ loi đang trôi chầm chậm giữa bầu trời cao rộng.
+ Mạn mạn: chậm chậm, trôi nổi, lững lờ
-> Giữa bầu trời mênh mông, cánh chim và chòm mây càng cô đơn lẻ loi. Vẽ theo lối “chấm phá”, vẻ đẹp cổ điển mang phong vị Đường thi.
=> Hai câu thơ đầu đã gợi tả cảnh chiều tối nơi xóm núi mênh mông, cô quạnh. Hai câu thơ mang phong vị cổ điển, chỉ bằng hai nét vẽ, cảnh trời chiều đã hiện lên hết sức sống động. Bút pháp chấm phá như ghi lấy linh hồn tạo vật. Bức tranh thiên nhiên vừa có tính ước lệ vừa có ý nghĩa hiện thực: Tả ngoại cảnh nhưng cũng chính là tâm cảnh.
* Tâm trạng: 2 câu thơ gợi một nỗi buồn man mác, cô đơn, bâng khuâng của tác giả. Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra cả một không gian tâm trạng: cảnh buồn, người buồn.
- Thiên nhiên ảm đạm và hoang vắng có phần phù hợp với cảnh ngộ của Người. Nhưng qua đó ta lại thấy được một nét nổi bật trong tâm hồn Bác, là trong giờ phút đau khổ, nặng nề, cực nhọc nhất Bác vẫn tha thiết với thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm.
- Trong nỗi buồn chiều muộn có một khát vọng tự do ẩn kín trong đôi mắt dõi theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời rộng của Bác. Đó còn là một tâm hồn luôn hướng về đất nước, vì đất nước Bác cô gắng đi hết con đường chuyển lao chờ ngày tự do hoạt động cách mạng. Đó chính là tinh thần thép của Bác.
Câu 3:
Bức tranh đời sống trong hai câu cuối:
- Cô em…xay ngô: Cảnh con người lao động đời thường bình dị quen thuộc
-> Hình ảnh cô giá xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, đầy sức sống. Con người là trung tâm của bức tranh thiên nhiên.
- “ma bao túc…Bao túc ma hoàn” (lặp): lao động liên tục
-> Cần mẫn, chăm chỉ: vòng quay không dứt của động tác xay ngô. Dòng lưu chuyển của thời gian một cách tự nhiên.
- “Lò than…rực hồng”: ấm cúng và hạnh phúc.
“hồng” là điểm sáng thẫm mĩ, là nhãn tự của bài thơ
-> Hình ảnh thơ không tĩnh tại mà hướng đến ánh sáng, sự sống.
- Ý nghĩa:
+ Gợi cuộc sống sum vầy, ấm áp, làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày, mang lại niềm vui, sức mạnh, sưởi ấm lòng người tù.
+ Sự luân chuyển về thời gian: buổi chiều kết thúc, thời gian chuyển sang đêm tối nhưng là đêm tối ấm áp, bừng sáng.
+ Sự vận động từ nỗi buồn đến niềm vui, từ bóng tối đến ánh sáng.
+ Niềm tin, niềm lạc quan.
Câu 4:
Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của bài thơ:
- Thể thơ tứ tuyệt hàm súc
- Hình ảnh đậm tính ước lệ, tượng trưng,
- Bút pháp gợi tả chấm phá, cốt ghi lấy linh hồn của tạo vật, cô động, hàm súc đặc trưng cho lối nghê thuật cổ điển và kết hợp với nét hiện đại: Miêu tả con người như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên, mạch thơ vận động hướng về sựsống và ánh sáng, nghệ thuật tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường đã tạo nên bức tranh thiên nhiên và phong cảnh đặc sắc trong bài thơ, giúp thể hiện rõ hơn tâm trạng của tác giả.
- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm: quyện điểu, cô vân. Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khỏe khoắn. Bài thơ sử dụng những chữ có thể làm "sáng" lên cả bài thơ: chữ "hồng" trong câu thơ.
LUYỆN TẬP:
Câu 1:
- Sự vận động của cảnh vật:
+ Ngòi bút Hồ Chí Minh diễn tả thiên nhiên rất chân thật, tự nhiên. Hình ảnh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu lộ ra vẻ ảm đạm và hoang vắng nhưng có phần phù hợp với cảnh ngộ của Người. “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” câu thơ đầy tâm trạng. Nhìn cánh chim bay mà nhận ra vẻ uể oải của đôi cánh chim. Chỉ một cái nhìn ta nhận ra con người đó giàu tình cảm biết bao! Có lẽ Bác bị giải đi suốt cả ngày quá mệt mỏi nên dễ đồng cảm với cánh chim “quy lâm” kia. Nhưng nhà thơ không để lộ ra vẻ mệt mỏi của mình mà còn lột tả được nét nổi bật trong tâm hồn Bác, là trong giờ phút đau khổ, nặng nề, cực nhọc nhất Bác vẫn tha thiết với thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm.
+ Hai câu thơ cuối như lấy lại sự ấp ám bởi hình ảnh thiếu nữ xuất hiện làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh. Lại có sự vận động “ma bao túc” (xay ngô tối) làm cho không khí buổi chiều đượm một chút náo nhiệt, hình ảnh cố giá xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, đầy sức sống. Cảnh chiều tối bỗng dưng có sinh khí. Tuy khổ sở về cảnh ngục tù nhưng không lúc nào Bác không lưu tâm đến những người lao động và những hoạt động thiết thực của họ.
Sự vận động từ nỗi buồn đến niềm vui, từ bóng tối đến ánh sáng.
Bài thơ đã tạo nên một hình ảnh Hồ Chí Minh: vượt hoàn cảnh, tâm hồn hướng đến ánh sáng, gắn bó với cuộc đời, con người.
Câu 2:
Hình ảnh thể hiện tập trung vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh trong bài có thể nói là hình ảnh cô gái xay ngô tối và bếp lửa hồng. Trung tâm bài thơ chính là con người lao động và ngọn lửa của sự sống. Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề. Nó toát lên vẻ gần gũi, giản dị, trẻ trung, khỏe mạnh, sống động của cuộc sống lao động bình dị.
Câu 3:
Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã ca ngợi thơ Bác: vừa có chất thép mà vẫn đàm dàn chữ “Tình”. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Chiều tối”:
- Chất thép: Hai câu thơ đầu, Bác đã vẽ nên một bức tranh mang vẻ đẹp cổ điển, tả ít mà gợi nhiều, chỉ hai nét phác họa mà gợi lên hồn cảnh vật. Thiên nhiên ảm đạm và hoang vắng có phần phù hợp với cảnh ngộ của Người. Nhưng qua đó ta lại thấy được một nét nổi bật trong tâm hồn Bác, là trong giờ phút đau khổ, nặng nề, cực nhọc nhất Bác vẫn tha thiết với thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm. Qua đó, thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ. Bởi vì nếu không có ý chí và nghị lực, không có phong thái ung dung tự chủ và sự tự do hoàn toàn về tinh thần thì không thể có những câu thơ cảm nhận thiên nhiên thật sâu sắc và tinh tế như thế trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tù đày.
- Chất tình: Hình ảnh Bác trong bài thơ đã vượt hoàn cảnh, tâm hồn để hướng đến ánh sáng, gắn bó với cuộc đời, con người. Qua đó thấy được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, yêu cuộc sống bình dị của người lao động. Bài thơ tuy viết về cảnh chiều tối nhưng lại thắp sáng lên trong lòng người đọc một ngọn lửa hồng ấm áp của niềm tin yêu đời.