Bài phân tích "Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức" số 3
Nội dung chính của bài chính luận Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức cho thấy Nguyễn An Ninh là người am hiểu sâu rộng trong lĩnh vực ngôn ngữ nói chung. Tác giả đã có những nhận xét tinh tế về việc người An Nam sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (ở đây là tiếng Pháp); những lý giải thấu đáo và những giải pháp đúng đắn trong việc học tiếng nước ngoài của giới trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.
Điều quan trọng nhất là bài chính luận đã nêu lên quan điểm đúng đắn của Nguyễn An Ninh về tiếng nói dân tộc trên nhiều phương diện. Ông chống lại thói Tây há lố lăng của không ít người An Nam lúc bấy giờ. Thói quen này làm tổn hại đến tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Nguyễn An Ninh phê phán quan niệm sai lầm cho rằng tiêng nước mình nghèo nàn. Tuy đề cao tiếng Việt nhưng ông vẫn khuyến khích giới tri thức học tiếng nước ngoài.
Ông có quan niệm hết sức đúng đắn rằng “Sự cần thiết phỉa biết một ngoại ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài cho mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”. Ông đề cao sức mạnh của tiếng nói dân tộc, coi đó là người bảo vệ cho nền đọc lập dân tộc, như là yếu tố quan trọng để giải phóng dân tộc. Những ý kiến của Nguyễn An Ninh về tiếng mẹ đẻ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là từ gốc độ văn hóa.
Ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều một kiệt tác văn chương được đánh giá đã thể hiện một cách sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người. Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”. Một sự suy luận logic và hoàn toàn có lí. “Ở An Nam cũng như mọi người khác đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”
Tuy nhiên, trong bài luận của mình, có lúc Nguyễn An Ninh đề cao quá mức vai trò của tiếng mẹ đẻ, đôi lúc thể hiện sự tuyệt đối hóa: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Hai chữ nhất trong đoạn văn rõ ràng quá nhấn mạnh vai trò của tiếng mẹ đẻ trong câu khái quát chung.
Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí còn khuyến khích việc “để cho đồng bào họ cũng phải được thông phần nữa”. Việc biết thêm ngôn ngữ nước ngoài phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình. Trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị thì câu nói “Nếu người An Nam hãnh diện... vấn đề thời gian” có lí, nhưng không hoàn toàn đúng. Chúng ta muốn giải phóng thì cần cuộc cách mạng vũ trang chứ không đơn thuần chỉ làm cho ngôn ngữ phong phú
Khi cụ thể hóa vấn đề vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ông lại viết: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Nói như vậy là tự đặt tiếng nói dân tộc lên vị trí quá cao, tách rời và xem nhẹ các yếu tố khác trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đó chính là hạn chế của bài chính luận này.
Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh cu thể thì bài viết này đã đánh thức được lòng tự hào dân tộc, phát huy sức mạnh tinh thần của dân tộc. Đó chính là dụng ý của tác giả khi viết bài chính luận này.