Top 10 Vị Thánh ít được biết đến của Giáo hội Công giáo
Trong đời sống Công giáo, chúng ta thường xuyên cầu nguyện với các vị Thánh. Một số vị Thánh thường được thấy trong lịch phụng vụ để tôn vinh đặc biệt vào ... xem thêm...những ngày lễ của họ. Những cái tên rất quen thuộc như Thánh Cecilia, Thánh Joan, Thánh Dominico, Thánh Joseph, Thánh Theresa…. Họ được ca ngợi đến nỗi thậm chí còn được xã hội thế tục ngưỡng mộ. Tuy nhiên, không phải tất cả các vị Thánh đều nổi tiếng như vậy: ngoài một số vị Thánh mà ai cũng đã từng nghe qua, thì bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều các vị Thánh đã được giáo hội Công giáo công nhận nhưng ít khi được nhắc đến hoặc không phổ biến.
-
Thánh Casimir sinh ra là một hoàng tử ở Ba Lan vào thế kỷ 15, là người đứng thứ ba trong danh sách kế vị ngai vàng. Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, ông đã được biết đến với lòng mộ đạo cùng sự tận tâm, điều này được khuyến khích cũng như củng cố bởi một người đàn ông thánh thiện đã dạy dỗ ông và những đứa trẻ khác trong cung điện. Dù sống trong hoàng tộc, nhưng Casimir không để những thứ xa hoa che lấp lòng trung thành của mình với Đức Chúa Trời. Ông ăn mặc rất giản dị, ngủ trên nền đất, thường xuyên cầu nguyện, ăn chay để rèn luyện ý chí cùng lòng trung thành. Ông thường giúp đỡ người nghèo và rất tôn sùng kính Đức Maria.
Khi Casimir 15 tuổi, chú ông - vua của Hungary qua đời, cha ông đã đảm nhận trọng trách thay, đồng thời quyết định đặt con trai mình vào vị trí đó. Sau một cuộc chiến tranh kéo dài vài năm tại Hungary dẫn đến thất bại, Casimir quay trở lại Krakow. Cha ông rất tức giận vì ông không giúp được việc mở rộng vương quốc, nên đã nhốt ông trong một toà lâu đài suốt ba tháng. Quyết tâm hướng tới hòa bình của Casimir ngày càng sâu sắc hơn, và từ đó ông không bao giờ tham gia vào các cuộc xâm lược chính trị nữa. Khi anh trai của ông là Vladislaus II cai trị Bohemia, Casimir lúc này trở thành thái tử, đồng thời là người thừa kế ngai vàng của Ba Lan lẫn Litva.
Cha ông đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân cho ông với Kunigunde - con gái hoàng đế Frederick III của Áo, nhằm để thống nhất một phần vương quốc, nhưng ông từ chối vì đã dâng mình cho Chúa qua đời sống khiết tịnh. Casimir mắc bệnh lao, và vào tháng 5 năm 1483, ông cùng vua cha đến Vilnius. Sau một thời gian đảm nhiệm một số nhiệm vụ ở đó, sức khỏe của ông ngày càng xấu đi trong khi những tin đồn về sự ngoan đạo cùng những việc làm tốt của ông ngày càng được lan rộng. Ông trở nên rất nổi tiếng với công việc từ thiện cũng như giúp đỡ người nghèo. Tháng 2 năm 1484, cha ông vội vã trở về Litva để ở bên người con trai ốm yếu của mình.
Casimir qua đời vào ngày 4 tháng 3 năm 1484 tại Hrodna, ở tuổi 25. Hài cốt của ông được an táng tại Nhà thờ lớn Vilnius - nơi có nhà nguyện Thánh Casimir chuyên dụng được xây dựng năm 1636. Ông được Đức Giáo Hoàng Adrian VI phong Thánh năm 1522, và là Thánh bảo trợ của Ba Lan cùng Litva. Ngày 11 tháng 10 năm 1948, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã tôn phong Thánh Casimir làm bổn mạng đặc biệt của giới trẻ.
-
Thánh Alexis là một tu sĩ người Hy Lạp ở thế kỷ thứ IV sống ẩn danh, và cũng là con trai duy nhất của một thượng nghị sĩ La Mã giàu có. Ông được biết đến với sự cống hiến của mình cho Chúa Kito. Alexis đã sớm học được cách từ thiện giúp đỡ người nghèo từ cha mẹ là tín đồ Cơ Đốc giáo tốt bụng của mình. Cha mẹ ông đã chọn sẵn một cô dâu môn đăng hộ đối, nhưng ông lại muốn từ bỏ những thứ xa hoa cùng địa vị của mình. Cuối cùng, điều này được chấp nhận, và rồi ông đã huỷ hôn vào ngày cưới.
Alexis cải trang đến Syria, sống một cuộc đời khó nghèo gần nhà thờ Đức Mẹ. Sau 17 năm ở đó, một bức ảnh của Đức Mẹ đã phát ra tiếng nói với mọi người rằng người ăn xin này là một người đàn ông rất thánh thiện. Bà gọi ông là "Người đàn ông của Chúa". Sau lần Đức Mẹ hiện ra này, Alexis bỗng trở nên nổi tiếng. Vì không muốn có quá nhiều sự chú ý đổ dồn vào mình, thế nên ông quay trở lại Rome. Alexis trở về trong bộ dạng như một người ăn xin, ngay cả cha mẹ ông cũng không nhận ra. Nhưng bởi vì họ rất tử tế với tất cả những người nghèo, nên vì vậy đã để ông ở lại đó. Tại một góc dưới gầm cầu thang trong ngôi nhà của chính mình, Alexis đã sống thêm 17 năm nữa. Ông chỉ đến nhà thờ để cầu nguyện và dạy các trẻ nhỏ về giáo lý. Những người làm thường rất ác ý với ông, và mặc dù Alexis có thể chấm dứt tất cả những đau khổ này chỉ bằng cách nói cho cha mẹ biết mình là ai, nhưng ông vẫn chọn không nói gì. Ông đã thể hiện sức mạnh ý chí to lớn để có thể thực hiện điều này trong nhiều năm. Sau khi Alexis qua đời, gia đình ông tìm được một mảnh giấy trên người của ông, điều này cho họ biết ông là ai và đã sống cuộc đời như thế nào kể từ ngày đầu tiên ra đi cho đến lúc qua đời vì tình yêu của Chúa.
Cuộc đời của Thánh Alexis cho những Cơ Đốc nhân thấy rằng ta không nên tập trung vào những thứ chỉ thuộc về thế gian này, những thứ có thể sẽ hư mất. Hãy tập trung vào cuộc sống mai sau với Đức Chúa Trời và những thứ vĩnh cửu. Nếu ta đạt được tất cả mọi thứ trên thế giới này và không quan tâm đến cuộc sống mai sau thì có ích gì?
-
Thánh Rose Philippine Duchesne sinh ra ở Grenoble-Pháp, trong một gia đình thuộc hàng khá giả. Bà đã được học về chính trị từ cha và tình yêu thương người nghèo từ mẹ. Đặc điểm nổi bật trong khí chất của bà là ý chí mạnh mẽ, bất khuất, cũng như sự thánh thiện.
Thánh Rose vào tu viện Visitation of Mary năm 19 tuổi, và ở lại đó bất chấp sự phản đối của gia đình. Khi cách mạng Pháp nổ ra, tu viện bị đóng cửa; bà bắt đầu chăm sóc những người nghèo, người bệnh, mở trường học cho trẻ em vô gia cư và liều mạng giúp đỡ các linh mục bị kẹt dưới lòng đất. Khi tình hình ổn định, bà đã đích thân thuê lại tu viện trước đây từ một đống đổ nát, cố gắng phục hồi đời sống tôn giáo trở lại. Tuy nhiên, chỉ còn lại bốn nữ tu; họ gia nhập Hội Thánh Tâm sơ sinh, mà bề trên trẻ tuổi - Mẹ Madeleine Sophie Barat là người sau này đã trở thành người bạn suốt đời của bà. Trong một thời gian ngắn, bà là vừa là mẹ bề trên, vừa là giám thị của tập viện và trường học. Nhưng kể từ khi nghe những câu chuyện về công việc truyền giáo ở Louisiana khi còn là một cô bé, bà luôn mong được đến Mỹ để làm việc giữa những người da đỏ.
Ở tuổi 49, Thánh Rose nghĩ đây sẽ là công việc của mình. Thế nên, bà cùng với bốn nữ tu đã trải qua 11 tuần lênh đênh trên biển trên đường đến New Orleans, và bảy tuần để đến St. Louis. Sau đó, bà gặp phải một trong những nỗi thất vọng của cuộc đời mình khi vị giám mục cho biết rằng không có nơi nào để họ có thể sống và làm việc giữa những người Mỹ bản địa. Thay vào đó, ngài ấy gửi bà đến nơi mà bà gọi là “ngôi làng xa xôi nhất nước Mỹ,” - St. Charles, Missouri. Với nghị lực và lòng dũng cảm đặc trưng, Thánh Rose đã thành lập trường học miễn phí đầu tiên dành cho nữ sinh ở phía tây Mississippi. Khi đến Florissant-Missouri, bà thành lập tiếp trường Công giáo đầu tiên dành cho người da đỏ, cũng như thêm những trường khác trong lãnh thổ.
Cuối cùng ở tuổi 72, bà đã nghỉ hưu vì sức khỏe yếu dần. Tuy nhiên, bà đã đạt được ước nguyện cả đời của mình. Thánh Rose Philippine Duchesne qua đời năm 1852, hưởng thọ 83 tuổi, và được phong Thánh năm 1988. Lễ kính của bà được cử hành vào ngày 18 tháng 11.
-
Thánh Margaret của Antioch là một trinh nữ tử đạo. Bà sống tại Pisidian Antioch ở Tiểu Á - nơi cha của bà là một linh mục ngoại giáo. Mẹ bà đã qua đời ngay sau khi Margaret chào đời, vì vậy bà được một người phụ nữ ngoan đạo sống cách Antioch khoảng 5,6 dặm nuôi dưỡng. Sau khi theo Cơ Đốc giáo, cha bà phản đối đến nổi không còn muốn nhìn mặt bà. Và vì vậy, Margaret được một người y tá nhận làm con nuôi.
Ngày nọ, khi bà đang ở một mình thì tên quận trưởng La Mã Olybrius đã để mắt đến bà, hắn bị thu hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của Margaret nên đã tìm cách để biến bà thành vợ lẻ của mình. Khi những lời dụ dỗ kèm theo những đe dọa trừng phạt đều không thể thuyết phục được bà chiều theo ý muốn của hắn, hắn ta đã đưa bà ra xét xử công khai tại Antioch. Margaret bị dọa giết nếu không từ bỏ đức tin Cơ Đốc. Tuy nhiên, trinh nữ thánh thiện này vẫn từ chối việc phải chuyển sang tôn thờ các vị thần khác của đế chế. Thế nên họ đã đốt bà, nhưng ngọn lửa bốc cháy cũng không khiến bà hề hấn gì. Sau đó, Margaret bị trói tay chân, đồng thời bị đẩy vào vạc nước sôi; nhưng nhờ lời cầu nguyện, xiềng xích của bà đã bị phá vỡ và bà đứng dậy mà không hề bị thương. Cuối cùng, tên quận trưởng ra lệnh xử trảm bà.
Nhà thờ Hy Lạp tôn vinh Thánh Margaret của Antioch dưới cái tên Marine vào ngày 13 tháng 7 và tiếng Latinh là Margaret vào ngày 20 tháng 7. Đôi khi hình ảnh bà được thể hiện trong nghệ thuật với tư cách là một cô gái chăn cừu, hoặc đang dẫn một con rồng bị xích, có khi lại là mang một cây thánh giá nhỏ, một chiếc thắt lưng trên tay, hoặc đứng bên một chiếc bình lớn gợi nhớ đến chiếc vạc nước sôi mà bà từng bị đẩy vào. Các thánh tích được cho là của vị thánh này được tôn kính tại rất nhiều nơi ở Châu Âu như: Rome, Montefiascone, Brusels, Bruges, Paris, Froidmont, Troyes cùng nhiều nơi khác. Và cũng thật kỳ lạ, Thánh Margaret đã được tôn kính rộng rãi trong nhiều thế kỷ như một người bảo trợ đặc biệt cho những phụ nữ đang mang thai.
-
Thánh Brice của Tours là một đứa trẻ mồ côi được Thánh Martin của Tours cứu và được các giáo sĩ của Martin nuôi dưỡng. Mặc dù bề ngoài ông là một học trò tinh thần của Thánh Martin, nhưng thật ra lại rất ngông cuồng, độc ác, kiêu ngạo, vô ơn và vô kỷ luật đến nỗi một số người nghĩ rằng ông bị quỷ ám. Dù ông đã trở thành một linh mục nhưng lại là một linh mục vô ích, đầy tham vọng. Nhiều người cố gắng khuyên Martin đuổi Brice đi, nhưng ngài ấy nói rằng nếu Chúa Jesus có thể đối phó với Judas thì ngài cũng có thể đối phó với Brice.
Bất chấp thái độ của Brice, Martin hết sức kiên nhẫn với ông, và trong lúc vô cùng hối hận, ông đã xin Martin tha thứ cho thái độ của mình. Khi Martin qua đời năm 397, Brice được chỉ định kế vị ngài ấy làm Giám Mục của Tours-Pháp; nhưng ông vẫn trở lại đường cũ, bỏ bê nhiệm vụ, nhiều lần bị buộc tội thiếu đạo đức. Mặc dù được xóa tội sau đó, nhưng ông đã bị trục xuất. Ông đến Rome và trong bảy năm lưu đày ở đó, Brice đã ăn năn cũng như thay đổi hoàn toàn phong cách sống.
Các cuộc điều tra chính thức của giáo hội đã xóa bỏ những hành vi sai trái của ông, và vì thế, ông được sự ủng hộ từ Thánh Giáo Hoàng Zosimus. Khi Giám Mục Justinian qua đời năm vào 430, Brice được quay trở lại Tours để khẳng định vị trí của mình. Tuy nhiên, người dân địa phương vẫn nhớ đến ông cũng như quá khứ trước đây nên đã đuổi ông ra khỏi thị trấn một lần nữa, đồng thời phong một linh mục tên là Armentius làm Giám Mục. Và khi Armentius qua đời năm 437, Brice lại tiếp tục được quay trở lại Tours một lần nữa. Nhưng lần này khác với những lần trước đó, các tin tức về việc ông đã có một cuộc sống tốt đẹp, đạo đức hơn trong 40 năm lưu vong được đồn xa. Vì vậy, Brice được phép ở lại, cai quản giáo phận của mình cho đến khi qua đời. Việc cải đạo của ông là chân chính và hợp pháp đến nỗi ngay cả các giáo dân từng phản đối ông trước đây cũng cho rằng ông xứng đáng trở thành một vị Thánh.
-
Thánh Zoe của Rome là một phụ nữ quý tộc đã kết hôn với một luật gia hàng đầu La Mã tên là Nicostratus. Chồng bà cũng là cai ngục của Thánh Sebastian. Bà bị câm trong suốt 6 năm, nhưng đã phục hồi giọng nói khi Thánh Sebastian làm Dấu Thánh Giá trên trán cho bà. Giờ đây, khi đã có thể nói được trở lại, Thánh Zoe ca ngợi Chúa Jesus Kito và kể về việc nhìn thấy một thiên thần đang cầm một quyển sách, mà trong đó mọi điều Thánh Sebastian từng nói đều được viết ra. Sau đó, bà và chồng là Nicostratus yêu cầu được Sebastian làm lễ rửa tội. Chồng bà đã đưa gia đình của họ, gia đình của người thư ký và những tù nhân bị kết án mà ông chịu trách nhiệm về nhà của họ. Ở đó, tất cả mọi người đều nghe nói về việc được chữa lành của Zoe. Vào buổi tối, linh mục Polycarp đã rửa tội cho tất cả 64 người có mặt.
Tuy nhiên, vì sống trong cuộc đàn áp Kito giáo đầu tiên dưới thời Hoàng đế Diocletian. Nên một ngày nọ, khi đang cầu nguyện tại mộ của Thánh Peter, người mà Zoe rất sùng kính, bà đã bị bắt làm tù binh, bị đưa ra xét xử công khai - nơi mà bà một mực từ chối việc từ bỏ đức tin của mình. Sau đó bị treo tóc lên cây trên một ngọn lửa và qua đời vì ngạt khói. Thi thể của bà bị ném xuống sông Tiber. Vào năm 286, Thánh Zoe của Rome từng xuất hiện trong một linh ảnh với Thánh Sebastian khi ông đang ở trong tù trước khi bị hành quyết. Ông ấy đã ghi nhận điều này để làm tấm gương về đức tin cũng như lòng dũng cảm của bà.
-
Thánh Marianne Cope được sinh ra tại Đức năm 1838, và bà đã dành phần lớn cuộc đời mình để làm việc tại Hawai trên đảo Moloka. Lúc bấy giờ Heppenheim - quê hương của bà là đại công quốc Hessen. Ngày nay, khu vực đó đã trở thành một phần của nước Đức. Chỉ một năm sau khi Thánh Marianne chào đời, gia đình bà di cư sang Hoa Kỳ, và định cư tại Utica-Newyork. Bà theo học một trường giáo xứ cho đến lớp tám. Vào thời điểm đó, cha của bà không may trở thành một người tàn tật và bà phải làm việc trong một nhà máy để giúp đỡ gia đình.
Khi cha mất vào năm 1862, Marianne quyết định rời nhà để theo đuổi đời sống tôn giáo, trở thành tập sinh của các nữ tu Dòng Ba Thánh Phanxico có trụ sở tại Syracuse - New York. Sự nhập cư và định cư của những người Đức với số lượng lớn tại khu vực của bà ở bang New York, giúp bà trở thành giáo viên, sau đó là hiệu trưởng tại một trường học dành cho trẻ em nhập cư. Marianne cũng giúp chỉ đạo việc mở hai bệnh viện Công giáo đầu tiên tại đây. Đến năm 1883, bà trở thành bề trên tổng quyền của giáo đoàn. Vào thời điểm này, bà nhận được lời cầu cứu từ những người mắc bệnh phong tại Hawaii. Đích thân vua Kalakaua đã gửi thư yêu cầu hỗ trợ điều trị cho các bệnh nhân đang bị cách ly trên đảo Moloka, nhưng đã bị hơn 50 học viện tôn giáo khác từ chối. Marianne lúc bấy giờ đã cùng với 6 chị em của mình đến đó để chăm sóc người bệnh. Ở đó, bà quản lý một bệnh viện trên đảo O'ahu - nơi các nạn nhân của bệnh phong được gửi đến để phân loại trường hợp điều trị. Những bệnh nhân nặng nhất thì được gửi đến đảo Moloka. Một năm sau đó, bà giúp thành lập bệnh viện Malulani trên đảo Maui.
Thời gian thấm thoát trôi qua, Marianne đã lớn tuổi nhưng khối lượng công việc lại dường như ngày càng tăng lên. Bà tiếp tục với công việc mới là chăm sóc trẻ mồ côi của những người mắc bệnh. Cuối cùng, mọi thứ đã trở thành gánh nặng đối với cơ thể yếu ớt của bà và Marianne phải ngồi xe lăn. Tuy nhiên, bất chấp hạn chế này, bà vẫn làm việc không ngừng nghỉ. Thánh Marianne Cope qua đời ngày 9 tháng 8 năm 1918 và được an táng tại Bishop Home. Bà được phong chân phước năm 2005 và được Đức Thánh Cha Benedict XVI phong Thánh năm 2012. Di hài của bà hiện được đặt trong một đền thờ tại Syracuse - New York.
-
Thánh Henry là một giáo sĩ người Anh thời trung cổ. Ông đã đến Thụy Điển cùng với Hồng Y Nicholas Breakspeare vào năm 1153 và được chỉ định làm Tổng Giám Mục mới của Uppsala - nơi các Kito hữu đã tồn tại được hai thế kỷ. Ông cũng là vị Thánh bảo trợ của Phần Lan, được vinh danh ở đó khi địa điểm hành hương Công giáo duy nhất tại đất nước này đặt theo tên ông. Henry sinh ra trong một gia đình người Anh vào khoảng đầu thế kỷ 12, và không có nhiều thông tin về những sự kiện đầu đời của ông. Gần thời điểm ông được thụ phong, một người mà sau này được gọi là vua Eric the Saint đã lên ngôi ở Thụy Điển. Henry và Eric đã cùng nhau truyền bá đạo Công giáo khắp các vùng Scandinavia.
Khi Henry, theo lệnh của vua Eric đến Phần Lan để truyền giáo thì thật không may, vào năm 1156 ông bị sát hại bởi một người Phần Lan ngoại đạo - người được biết đến trong truyền thuyết với cái tên Lalli. Henry đã qua đời như một vị tử đạo và trở thành nhân vật trung tâm của nhà thờ Công giáo địa phương. Kể từ đó cũng bắt đầu nảy sinh ra những truyền thuyết xung quanh phần đời còn lại của Lalli. Được kể lại nhiều nhất trong số này là việc hắn ta sống phần còn lại của cuộc đời mình luôn bị những con chuột đang gặm nhấm theo đuổi, cuối cùng chúng đã đuổi theo hắn xuống biển, nơi Lalli chết đuối cùng với từng con chuột. Hình ảnh những con chuột đang gặm nhấm cũng là tượng trưng cho sự cắn rứt lương tâm của hắn ta sau khi giết một vị Thánh.
Những câu chuyện truyền thuyết này cho thấy sự ngưỡng mộ của người dân Phần Lan đối với Thánh Henry - người đã can đảm chết vì công cuộc truyền giáo. Ngày lễ của ông được cử hành bởi các nhà thờ Lutheran Phần Lan, cũng như nhà thờ Công giáo tại đất nước này. Ông được tưởng nhớ trong lịch phụng vụ của một số nhà thờ Lutheran và Anh giáo. Mặc dù chưa bao giờ được phong Thánh chính thức, nhưng Henry luôn được xem là một vị Thánh trong các tài liệu của Giáo Hoàng ngay từ năm 1296, và vì vậy ông đã được tôn kính kể từ đó.
-
Thánh Richard Pampuri là con thứ mười trong số mười một người con trong gia đình. Ông được rửa tội ngày 13 tháng 8 năm 1897, một ngày sau khi sinh. Khi mẹ ông qua đời năm 1900, Richard được cậu và dì sống ở một ngôi làng lân cận tên là Torrino chăm sóc. Cha của ông cũng qua đời năm 1907 tại Milan trong một vụ tai nạn giao thông.
Suốt thời thơ ấu, Richard luôn ao ước trở thành một linh mục, nhưng vì sức khỏe yếu nên ông không còn muốn theo đuổi ước mơ này. Tuy nhiên, cậu của ông là một bác sĩ nên đã khuyến khích ông trở thành một bác sĩ y khoa. Do đó, Richard quyết tâm học ngành y. Ông theo học tại trường cao đẳng Augustine's ở Pavia. Tại đây, ông là thành viên trung thành của câu lạc bộ Công Giáo Tiến Hành Severino và hiệp hội Thánh Vincent de Paul. Ngày 20 tháng 3 năm 1921, tại tu viện Phanxico Canepanova ở Pavia, ông gia nhập Dòng Ba Thánh Phanxico và lấy tên là “Antonio”.
Vào đỉnh điểm của Chiến tranh thế giới thứ nhất, Richard đã phục vụ với tư cách là một trung sĩ, sau đó được đào tạo thành một sĩ quan trong quân y. Ông làm việc trong các bệnh viện dã chiến tại các vùng chiến sự. Khi chiến tranh kết thúc, ông cũng giải ngũ để tiếp tục học ngành phẫu thuật y khoa, và tốt nghiệp loại giỏi. Năm 1921, ông cùng người cậu của mình đi thực tập để tích lũy kinh nghiệm. Sau đó ông làm việc một thời gian ngắn tại đô thị Vernate rồi chuyển sang hành nghề ở Morimondo tại Milan. Ở Morimondo, Richard có công rất lớn trong việc thành lập câu lạc bộ Thanh Niên Công Giáo, đồng thời cũng trở thành thư ký của hiệp hội Trợ Giúp Truyền giáo của giáo xứ. Vào khoảng thời gian này, ông cảm thấy rằng lời kêu gọi sống đời tu trì của mình quá mạnh mẽ; do đó, ông đã gia nhập dòng tu ngày 22 tháng 6 năm 1927. Lý do chính khi đi tu là để ông có thể kết hợp nghề y của mình với sự thánh thiện của Tin Mừng. Bất cứ nơi nào ông đến, ông đều là một tấm gương sáng về đức tính Công giáo. Richard đã can đảm loan báo Tin Mừng cho mọi người cũng như thực thi các việc làm bác ái một cách quảng đại đối với những người nghèo khổ, túng thiếu. Ông cầu nguyện rất nhiều và thường đọc kinh Mân Côi vì lòng sùng kính Đức Maria.
Thánh Richard Pampuri bị bệnh viêm màng phổi, viêm phổi phế quản cùng bệnh lao dẫn đến việc qua đời của ông vào ngày 1 tháng 5 năm 1930. Hài cốt ông được bảo quản tại nhà thờ Công giáo ở Trivolzio-Ý. Quá trình phong Thánh cho Richard bắt đầu ngày 1 tháng 4 năm 1949 khi các tác phẩm của ông được thu thập và ghi lại. Chúng đã được điều tra cũng như phê chuẩn là có giá trị thần học. Ngày 4 tháng 10 năm 1981, Richard được phong chân phước bởi Đức Giáo Hoàng John Paul II sau khi phép lạ chữa lành đầu tiên được phê chuẩn. Và tiếp theo, sau khi phép lạ chữa lành thứ hai được chấp thuận, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã phong Thánh cho ông vào ngày 1 tháng 11 năm 1989 tại vương cung thánh đường Thánh Peter-Thành phố Vatican.
-
Thánh Arnold Janssen là một linh mục giáo phận người Đức, sinh ra tại Goch ngày 5 tháng 11 năm 1837. Khi còn là một sinh viên trẻ tại đại học Bonn, ông đã nổi bật vì giành chiến thắng trong cuộc thi thông qua một bài luận về chủ đề thực vật. Sự xuất sắc này đã giúp ông trở thành giáo sư ở tuổi 22. Đại học Berlin đã mời ông về trường giảng dạy khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, Arnold từ chối lời đề nghị và chọn trở thành một linh mục, mạo hiểm với sự không ngừng nghỉ của một cuộc đời dành cho việc cứu chuộc nhiều người.
Năm 24 tuổi, ông chính thức trở thành linh mục. Vào thời điểm này, nước Đức bị xâu xé bởi xung đột chính trị, thời kỳ lãnh đạo độc tài mà các nhà sử học gọi là Kulturkampf. Đó là thời kỳ hợp lý hóa lạnh lùng, cưỡng chế chuyên quyền, thần thánh hóa nhà nước. Tháng 5 năm 1873, nhà nước Phổ đã thông qua luật ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc tôn giáo. Việc bất kỳ linh mục nào thi hành các nhiệm vụ của mình mà không có sự cho phép của chính quyền dân sự đều trở thành một tội hình sự. Các chủng sinh bị tuyên bố phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Sau đó, tiền phạt, thuế cũng như bản án tù được đưa ra. Các giám mục và linh mục bị bỏ tù.
Arnold dành nhiều thời gian cho việc xuất bản tạp chí Sứ Giả Thánh Tâm, và kêu gọi tất cả các linh mục bị chế độ Đức lưu đày làm việc cho các cơ quan truyền giáo. Ông đã mở chủng viện truyền giáo đầu tiên của mình vào năm 1875 trong một quán trọ cũ nát bên biên giới ở Steyl-Hà Lan. Ông đưa ra những yêu cầu khắt khe; trước hết phải có tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, sau đó là làm việc chăm chỉ, có lối sống giản dị, khó nghèo theo truyền giáo; những người truyền giáo sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng cho những hy sinh to lớn. Mặc dù vậy, con số vẫn đều đặn tăng lên. Năm 1889, sau một thời gian dài chuẩn bị, Arnold thành lập một hội dòng các nữ tu Truyền Giáo Phục Vụ Chúa Thánh Thần. năm 1879 đến 2889 trở đi ông gửi người đến rất nhiều quốc gia trên thế giới, cả ở khu vực Châu Âu lẫn Châu Á. Và khi Thánh Arnold Janssen qua đời ngày 15 tháng 1 năm 1909, cộng đồng ban đầu gồm bốn người của ông đã mở rộng thành một đại gia đình gồm ba hội Thánh làm việc trên khắp thế giới để xây dựng công việc truyền giáo.