Top 10 Vị Thánh Công giáo nổi tiếng thuộc dòng Benedictines
Dòng Benedictines là một dòng tu chủ yếu mang tính chiêm niệm của giáo hội Công giáo dành cho cả nam và nữ tu tuân theo quy tắc của Thánh Benedict của Nursia - ... xem thêm...người sáng lập nên nó. Và sau đây, Toplist sẽ giới thiệu đến bạn 10 trong số các vị Thánh Công giáo nổi tiếng xuất thân từ dòng tu này.
-
Thánh Benedict của Nursia là một tu sĩ, nhà văn và nhà thần học Cơ Đốc giáo người Ý; đồng thời ông cũng chính là người đã sáng lập nên dòng tu Benedictines nổi tiếng. Bên cạnh giáo hội Công giáo, Benedict còn được tôn kính trong giáo hội Chính Thống Đông Phương cùng cộng đồng Anh giáo. Năm 1964, giáo hoàng Paul VI đã chính thức tuyên bố phong ông làm Thánh bảo trợ của Châu Âu.
Trước khi dòng Benedictines hình thành, thì mười hai cộng đồng tu viện đầu tiên đã được thánh Benedict thành lập tại Subiaco thuộc Lazio nước Ý ngày nay, cách Rome khoảng 65km về phía đông. Vì vậy, dòng Benedictines thực sự xuất hiện muộn hơn và không phải là “một dòng” như người ta thường nhầm lẫn. Nó là một liên minh của các giáo đoàn tự trị.
Thánh Benedict xuất thân thuộc một gia đình quý tộc ở La Mã. Ông sinh ra vào khoảng năm 480, từng được gửi đến Rome để học tập. Nhưng ông cảm thấy chán nản với cuộc sống tại đây, nên đã tìm cách thoát khỏi thành phố lớn, rời đi cùng với người hầu của mình và định cư ở Enfide - nơi vùng núi Simbruini, cách Rome khoảng hơn 64km.
Trên đường đi, Benedict gặp một tu sĩ tên là Romanus. Người này đã kể với Benedict về lý do vì sao ông ấy đến nơi đây, và trao cho Benedict bộ áo tu sĩ. Theo lời khuyên của Romanus, Benedict đã trở thành một ẩn sĩ sống trong hang động suốt 3 năm. Và vào những ngày cố định, ông được người khác mang lương thực đến cho mình.
Trong ba năm cô độc này, Benedict đã trưởng thành cả về tâm trí lẫn tính cách. Cho đến khi một vị tu sĩ lãnh đạo của tu viện tại khu vực lân cận qua đời. Người ta đã đến gặp Benedict để mời ông về thay thế vị trí. Tuy nhiên, vì những kỷ luật cùng quy tắc khắc khe mà Benedict đưa ra cho tu viện, khiến mọi người không đồng tình với ông; thậm chí họ còn tìm cách để đầu độc ông. Dù vậy, rất may mắn mọi chuyện đã không thành. Benedict rời khỏi đó và quay trở lại hang động của mình ở Subiaco.
Cho đến năm 530, ông thành lập nên 12 cộng đồng tu viện tại vùng lân cận. Và cuối cùng là tu viện Benedictines nổi tiếng ở Monte Cassino, nằm trên đỉnh đồi giữa Rome và Naples.
Thánh Benedict của Nursia đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của chủ nghĩa tu viện ở phương Tây. Luật lệ của ông là tài liệu nền tảng cho hàng ngàn cộng đồng tôn giáo vào thời trung cổ. Cho đến ngày nay, các quy tắc ấy đã trở nên phổ biến cũng như có ảnh hưởng lớn, được các tu viện và tu sĩ sử dụng trong suốt hơn 1.400 năm kể từ lúc nó được viết ra.
Sau khi qua đời vì một cơn sốt vào tháng 3 năm 547, Benedict được chôn cất trong cùng một ngôi mộ với em gái của mình là Thánh Scholastica. Năm 1980, Đức giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố ông là vị Thánh bảo trợ của Châu Âu. Hơn nữa, còn là vị Thánh bảo trợ của các nhà khảo cổ học.
-
Thánh Aibert của Crespin sinh năm 1060 tại làng Espin, thuộc giáo phận Tournai, nước Bỉ ngày nay. Ông là một tu sĩ thuộc dòng Benedictines và cũng là ẩn sĩ được kính trọng vì đời sống cầu nguyện, khổ hạnh, mang lòng sùng kính mãnh liệt đối với Đức Maria. Aibert thường xuyên nhịn ăn, ông chọn ăn chay bằng bánh mì hoặc trái cây đơn giản khi làm việc trên cánh đồng từ lúc còn là một cậu bé.
Một ngày nọ, Aibert bị lay động khi nghe thấy một người hát rong lang thang, hát than thở về Thánh Theobald của Provins (một nhà thần bí dòng Benedictines). Kể từ thời điểm đó trở đi, Aibert bắt đầu sống như một ẩn sĩ cùng với người thầy của mình là John, trong khu rừng gần tu viện Crespin. Họ sống qua ngày chủ yếu nhờ các loại thảo mộc và đôi khi là bánh mì. Tất nhiên là họ ăn chay, đồng thời cũng không ăn thức ăn đã được nấu chín.
Sau khi trở về từ một chuyến hành hương đến Rome năm 1090, Aibert tham gia vào tu viện Crespin và trở thành một tu sĩ dòng Benedictines. Ông dành 25 năm tại đây, được biết đến với lòng tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Người ta nói rằng ông đã đọc 150 kinh Mân Côi cùng 100 lần quỳ gối mỗi ngày. Năm 1115, Aibert được phép trở lại với cuộc sống ẩn dật cô độc trước đây. Ông đã xây dựng một nơi ẩn náu cho mình tại vùng hoang dã và được các giáo dân đến tìm để xin lời khuyên và sự chữa lành tâm linh. Một thời gian sau khi trở về từ đó, ông được giám mục Burchard của Cambrai phong chức linh mục.
Thánh Aibert của Crespin qua đời vào năm 1140, thọ 80 tuổi. Ông đã để lại một di sản về cảm hứng thiêng liêng và lòng sùng kính. Mặc dù không được chính thức công nhận là Thánh bổn mạng, nhưng cuộc đời của Aibert là một tấm gương về sự cống hiến sâu sắc cho việc cầu nguyện, chiêm niệm, cũng như phục vụ người khác. Lễ kính của ông rơi vào ngày 7 tháng 4 hàng năm.
-
Thánh Anselm của Canterbury là một tu sĩ người Ý. Ông vừa là tu viện trưởng, vừa là triết gia nổi tiếng và là nhà thần học của giáo hội Công giáo. Anselm có năng khiếu vô cùng về trí tuệ và tâm linh, đồng thời cũng là một trong những nhà tư tưởng Kito giáo quan trọng nhất của thế kỷ XI.
Ông nổi tiếng nhất trong lĩnh vực triết học vì đã khám phá cũng như trình bày rõ ràng cái gọi là “lý lẽ bản thể học”. Bên cạnh đó, ông còn được xem là người sáng lập Chủ Nghĩa Kinh Viện. Qua nhiều tác phẩm của mình, Anselm có khả năng kết hợp một nền linh đạo thần bí rất sâu sắc với các nguyên lý của đạo Công giáo nhằm chống lại nhiều dị giáo vào thời xưa. Vì công việc đó, ông đã bị lưu đày hai lần dưới thời hai vị vua người Anh khác nhau, nhưng di sản của Anselm vẫn mạnh mẽ đến mức ảnh hưởng đến nhiều vị Thánh vĩ đại, như: Thánh Bonaventure và Thánh Thomas Aquinas.
Năm mười lăm tuổi, ông bắt đầu cảm nhận được việc bản thân mong muốn tham gia vào đời sống tu viện, nhưng lại không được sự đồng ý từ cha mình. Vì vậy, tu viện trưởng đã từ chối việc tham gia của Anselm. Sau đó, ông bị ảnh hưởng tâm lý do sự thất vọng, từ bỏ việc học một thời gian. Cho đến khi mẹ ông qua đời, Anselm giờ đây ở tuổi 23, đã rời nhà lang thang đến Burgundy và Pháp trong ba năm.
Khi đứng trước tu viện Benedictines ở Normandy. Ông bị thu hút bởi danh tiếng của vị tu sĩ đồng hương là Lanfranc xứ Pavia. Sau một thời gian theo học với nhà thần học, đồng thời là nhà biện chứng nổi tiếng này, thì cha của ông cũng qua đời. Thế nên Anselm đã gia nhập dòng Benedictines với tư cách là một tập sinh ở tuổi 27. Tại đây, ông đã cống hiến hết mình cho học thuật và nhận thấy sức hấp dẫn thời thơ ấu trước đó đối với đời sống tu viện đang thức tỉnh. Không thể quyết định giữa việc trở thành một tu sĩ, một ẩn sĩ, hay sống nhờ tài sản thừa kế của mình và bố thí cho người nghèo; nên Anselm đã đặt quyền quyết định vào tay người thầy là tu sĩ Lanfranc và tổng giám mục Maurilius của Rouen. Họ cho lời khuyên rằng ông nên bước vào đời sống tu viện ở Normandy - điều mà ông đã thực hiện vào năm 1060.
Cho đến năm 1063, sau khi Lanfranc rời khỏi đó để đến Canterbury, Anselm đã được chọn làm bề trên thay thế. Trong số nhiều nhiệm vụ khác nhau mà ông đảm nhận trước đó là hướng dẫn các tu sĩ, thì ông cũng dành thời gian để thực hiện các bài tập tâm linh nghiêm ngặt - điều này đã đóng một vai trò lớn trong sự phát triển triết học và thần học của ông.
Năm 1092, Anselm tới Anh, nơi người thầy Lanfranc trước đây từng là tổng giám mục của Canterbury. Ghế giám mục đã được để trống, và Anselm được đề cử làm giám mục mới. Ông đã cố gắng tranh luận rằng mình không phù hợp với vị trí này, nhưng cuối cùng cũng chấp nhận. Ông đã giữ chức vụ giám mục từ năm 1093 cho đến khi qua đời vào năm 1109. Ngoài được phong Thánh, Thánh Anselm của Canterbury còn được tuyên bố là tiến sĩ của giáo hội Công giáo La Mã năm 1720, bởi sắc lệnh của giáo hoàng Clement XI.
-
Thánh Frances của Rome sinh năm 1384, trong một gia đình quý tộc ở Ý. Nhưng bà lại bị cuốn vào cuộc sống khổ hạnh khi còn là một cô gái trẻ. Ngay từ năm 11 tuổi, Frances đã mong muốn trở thành nữ tu. Tuy nhiên, khoảng 1 năm sau đó, bà bị cha mẹ ép kết hôn với Lorenzo Ponziani - một chỉ huy quân đội giàu có. Dù là cuộc hôn nhân sắp đặt, nhưng họ vẫn hạnh phúc kéo dài suốt 40 năm. Và chồng của bà cũng khuyến khích vợ mình làm các công việc từ thiện, giúp đỡ cộng đồng.
Cùng với chị dâu Vannozza, Frances thường xuyên đến thăm những người nghèo, chăm sóc người bệnh, truyền cảm hứng cho những phụ nữ giàu có khác của thành phố cũng làm điều tương tự. Trong thời gian lũ lụt và nạn đói xảy ra, bà đã hiến một phần đất đai của gia đình làm bệnh viện, phân phát thực phẩm, quần áo cho mọi người.
Ở các cuộc chiến tranh giữa giáo hoàng tại Rome và nhiều kẻ chống giáo hoàng khác nhau của chủ nghĩa ly giáo phương Tây. Con trai Battista của bà bị giao làm con tin cho chỉ huy quân đội Neapolitan. Tuân theo mệnh lệnh của vị linh hướng, Frances đưa con trai mình đến điểm hẹn Campidoglio. Trên đường đi, bà dừng lại ở nhà thờ Aracoeli và cầu nguyện phó thác mạng sống của con trai mình cho Đức Maria. Khi đến địa điểm, bọn lính cố gắng đưa con trai bà lên ngựa để đến nơi giam cầm. Tuy nhiên, con ngựa không chịu di chuyển dù bị quất roi rất nhiều. Vì vậy, họ đành phải trả cậu bé về cho mẹ.
Trong thời gian bị buộc phải lưu đày, phần lớn tài sản và của cải của chồng bà là Lorenzo đã bị phá hủy. Trong một lần quân Neapolitan chiếm đóng thành Rome, ông bị thương nặng đến mức không thể bình phục hoàn toàn. Frances đã phải chăm sóc chồng mình suốt quãng đời còn lại. Bên cạnh đó, bà còn trải qua nỗi buồn khác khi mất đi hai người con vì bệnh dịch. Sự hỗn loạn cai trị thành phố trong thời kỳ bị giáo hoàng bỏ rơi, cùng cuộc chiến đang diễn ra giữa các thế lực khác nhau đang tranh giành quyền lực trên bán đảo Ý đã tàn phá thành phố. Frances tiếp tục dùng ngôi nhà của mình làm bệnh viện và dùng xe ngựa đi đến vùng nông thôn để lấy củi đốt cùng thảo dược làm thuốc.
Vào ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời 15 tháng 8 năm 1425, bà đã thành lập một cộng đồng tu sĩ dòng Benedictines. Đến tháng 3 năm 1433, bà thành lập thêm một tu viện gần Campidoglio. Dù vậy, bản thân Frances vẫn ở nhà riêng của mình, bà chăm sóc chồng trong 7 năm cuối đời vì những vết thương của ông trong trận chiến. Khi ông qua đời năm 1436, Frances chuyển vào tu viện và sống đời tu trì, trở thành Mẹ Bề Trên. Bà qua đời năm 1440, được chôn cất tại nhà thờ Santa Maria Nova.
Vào ngày 9 tháng 5 năm 1608, bà được Giáo hoàng Paul V phong Thánh. Năm 1869, thi hài Thánh Frances của Rome được khai quật và được trưng bày trong quan tài bằng kính để các tín hữu tôn kính.
-
Thánh Hildegard của Bingen là một nữ tu viện trưởng người Đức và học giả dòng Benedictines. Bà hoạt động với tư cách là một nhà văn, triết gia, nhà thần bí, đồng thời là người hành nghề y học trong thời trung cổ. Bên cạnh đó, Hildegard còn là một trong những nhà soạn nhạc Thánh ca nổi tiếng nhất, có nhiều bài được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử hiện đại. Bà đã được một số học giả coi là người sáng lập ra lịch sử tự nhiên khoa học ở Đức.
Khi còn nhỏ, Hildegard đã trải nghiệm những linh ảnh thiên đường, trong đó bà gặp Thiên Chúa qua các giác quan của mình. Tu viện tại Disibodenberg đã bầu bà làm Mẹ Bề Trên vào năm 1136. Tuy nhiên, Hildegard muốn bản thân được tự do nhiều hơn cùng với các nữ tu của mình nên đã yêu cầu sự cho phép họ được chuyển đến Rupertsberg. Dù tu viện trưởng từ chối đề nghị của bà, nhưng bà đã nhận được sự chấp thuận từ tổng giám mục Henry I. Chỉ khi Hildegard mắc một căn bệnh khiến bà bị liệt và không thể rời khỏi giường, thì quyết định cấp tu viện riêng cho các nữ tu mới được thực hiện. Hildegard cùng khoảng 20 nữ tu khác đã được chuyển đến tu viện Thánh Rupertsberg. Năm 1165, bà bắt đầu thành lập tu viện thứ hai tại Eibingen.
Thánh Hildegard của Bingen qua đời vào năm 1179. Mặc dù lịch sử phong Thánh chính thức của bà rất phức tạp nhưng lịch khu vực của giáo hội Công giáo La Mã đã liệt kê bà là một vị Thánh trong nhiều thế kỷ. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2012, Giáo hoàng Benedict XVI đã mở rộng việc tôn sùng phụng vụ Thánh Hildegard cho toàn thể giáo hội Công giáo. Vào ngày 7 tháng 10 năm 2012, Ngài đã vinh danh bà là “tiến sĩ hội Thánh” để công nhận cuộc sống thánh thiện và sự độc đáo trong lời giảng dạy của bà.
-
Thánh Romuald sinh ra ở Ravenna, phía đông bắc nước Ý, trong một gia đình quý tộc. Ông được đào tạo về ba triết lý tu viện chính: Benedictines, chủ nghĩa tu viện Ailen và quy tắc của người Iberia. Vì vậy, ông đã có thể nghiên cứu và tích hợp những điều này vào cái được gọi là quy tắc Thánh Romual của riêng mình.
Khi còn trẻ, Romuald đã say mê những thú vui và tội lỗi trần tục. Ở tuổi 20, ông chứng kiến cha mình ra tay với một người họ hàng trong cuộc tranh giành tài sản. Trong nỗi kinh hoàng, Romuald đã trốn đến một tu viện gần Ravenna để sám hối trong 40 ngày và trở thành một tu sĩ ở đó.
Tại tu viện nơi ông ở, Romuald bị một nhà quý tộc trẻ buộc tội về một tội ác tai tiếng, ông đã bị khiển trách vì lối sống phóng đãng. Thật ngạc nhiên là các tu sĩ đồng đạo của Romuald lại tin vào những lời buộc tội đó. Và ông phải chịu một sự đền tội nghiêm khắc, bị cấm dâng Thánh lễ - một bản án bất công mà ông phải chịu đựng trong im lặng suốt nửa năm.
Sau đó, Romuald từ bỏ chức vụ cùng các mối quan hệ của mình, trốn đến Cuxa - nơi ông theo tu phục Thánh Benedict. Romuald đã dựng lên một ẩn thất gần tu viện này. Ông sống ở đó trong khoảng 10 năm, tận dụng thư viện Cuxa để trau chuốt các ý tưởng của mình.
Romuald dành 30 năm tiếp theo để đi khắp nước Ý, thành lập và cải cách các tu viện cùng ẩn thất. Ông khao khát hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa Kito, thậm chí là tử vì đạo. Danh tiếng của Romuald đã được các cố vấn của hoàng đế La Mã thần thánh Otto III biết đến. Ông nhận được lời thuyết phục đảm nhận chức vụ tu viện trưởng còn trống tại Sant’ Apollinare để giúp mang lại một lối sống tận tâm hơn ở đó. Tuy nhiên, các tu sĩ khác đã phản đối những cải cách của ông; và sau một năm, Romuald từ chức, ném cây trượng lãnh đạo của mình dưới chân Otto trong sự thất vọng hoàn toàn. Sau đó ông lại rút lui về cuộc sống ẩn dật.
Năm 1012, Romuald đến giáo phận Arezzo, thành lập nên tu viện Camaldoli nổi tiếng ở Tuscany. Tại đây bắt đầu dòng Benedictines Camaldolese, hợp nhất đời sống đan tu và ẩn sĩ. Bên cạnh đó, Thánh Romuald còn thành lập một số tu viện khác, trong đó có tu viện Val di Castro - nơi ông qua đời vào năm 1027.
-
Thánh Boniface là một tu sĩ người Anh dòng Benedictines, và là nhân vật lãnh đạo sứ mệnh dân tộc Anglo-Saxon tới các vùng thuộc Đức của Francia trong thế kỷ thứ VIII. Ngay từ khi còn nhỏ, Boniface đã đã cống hiến hết mình cho đời sống tu viện. Ông theo học tại một dòng do tu viện trưởng Wulfhard quản lý ở Examchester.
Boniface dạy ở trường tu viện và trở thành linh mục ở tuổi 30. Trong thời gian này, ông viết một cuốn ngữ pháp Latinh có tên là “Ars Grammatica”.
Boniface lần đầu tiên rời lục địa vào năm 716, du hành đến Utrecht - nơi ông thuyết giảng ở vùng nông thôn. Nhưng những nỗ lực đã bị thất bại do chiến tranh đang diễn ra. Boniface quay trở lại lục địa vào năm sau đó và đi thẳng đến Rome - nơi ông gặp giáo hoàng Gregory II. Boniface đã tổ chức các nền tảng quan trọng của nhà thờ ở Đức và được giáo hoàng Gregory III phong làm giám mục của Mainz. Dù từ đó ông đã không còn trở lại Anh, nhưng vẫn trao đổi thư từ với những người đồng hương và họ hàng của mình trong suốt cuộc đời.
Năm 745, Boniface được phong làm thị trưởng đô thị. Cho đến năm 754, ông chịu tử đạo ở Frisia cùng với 52 người khác; hài cốt được đưa về Fulda - nơi mọi người yên nghỉ trong một vùng đất là địa điểm hành hương của những người theo đạo Thiên Chúa. Sau khi nhà thờ tu viện được xây dựng lại để trở thành vương cung thánh đường Ratgar, hài cốt của Boniface được chuyển sang một ngôi mộ mới vào năm 819. Từ đó trở đi ông trở thành vị Thánh bảo trợ của tu viện, được coi là người cầu thay tinh thần cho các tu sĩ. Ngày lễ của Thánh Boniface được tổ chức vào ngày 5 tháng 6, vinh danh ngày tử đạo của ông. Thánh lễ được cử hành trong các nhà thờ Công giáo La Mã, giáo hội Lutheran, cộng đồng Anh giáo và nhà thờ Chính Thống Đông Phương.
-
Thánh Ambrose Edward Barlow là một tu sĩ người Anh thuộc dòng Benedictines. Ông được đức giáo hoàng Paul VI phong Thánh và được biết đến là một trong 40 vị Thánh tử đạo của Anh và xứ Wales.
Sinh ra tại Barlow Hall, gần Manchester vào năm 1585, Edward là con trai thứ tư của nhà quý tộc Alexander Barlow. Gia đình bên nội của ông đã phải miễn cưỡng cải đạo sang giáo hội Anh giáo, khi giáo hội Công giáo ở Anh và xứ Wales bị đàn áp. Ông nội của Edward qua đời năm 1584 khi đang bị giam giữ vì niềm tin Kito giáo, đồng thời bị tịch thu 2/3 tài sản do từ chối tuân theo các quy tắc của tôn giáo mới thành lập.
Năm 1597, ở tuổi 12, Edward được gửi vào gia đình của một người anh họ theo đạo Tin Lành để học việc. Ông đã tuân theo đức tin Anh giáo cho đến năm 1607 khi trở lại đạo Công giáo. Sau thời gian hoàn thành việc học nghề, Edward nhận ra rằng ơn gọi thực sự của mình là làm linh mục, nên đã đến Douai ở Pháp để theo học trường Cao Đẳng Anh Ngữ ở đó trước khi theo học tại Đại Học Hoàng Gia Thánh Alban ở Valladolid, Tây Ban Nha.
Năm 1613, trong một chuyến thăm đến Anh, Edward bị bỏ tù vì đức tin của mình trong vài tháng. Khi được trả tự do, ông quay trở lại Douai vào năm 1615 - nơi ông gia nhập cộng đồng các tu sĩ Benedictines người Anh. Ông trở thành thành viên của dòng Thánh Benedict và lấy tên là Ambrose thay cho tên Edward.
Thụ phong linh mục năm 1617, Ambrose trở về Anh. Trong 24 năm làm việc ở miền nam Lancashire, may mắn thay cho ông vì nơi này không phải là lãnh thổ thù địch đối với người Công giáo và các linh mục của họ. Sau khi nhận được một khoản trợ cấp, ông đã thực hiện nghĩa vụ linh mục của mình giữa những người Công giáo nghèo trong giáo xứ.
Từ đó, Ambrose bí mật phục vụ nhu cầu của các giáo dân Công giáo, dâng thánh lễ hàng ngày và đọc kinh Mân Côi. Ông được những người nghèo yêu mến, Ambrose cũng chiêu đãi họ tại nhà mình trong những bữa tiệc lớn.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 1641, vua Charles I đã ký một tuyên bố ra lệnh rằng tất cả các linh mục phải rời khỏi đất nước trong vòng một tháng, nếu không sẽ bị bắt và bị xem như những kẻ phản bội; họ sẽ bị bỏ tù, thậm chí là tử hình. Giáo dân của Ambrose khuyên ông hãy chạy trốn nhưng ông đã từ chối. Vì vậy, vào ngày lễ Phục Sinh 25 tháng 4 năm 1641, ông cùng giáo đoàn khoảng 150 người của mình bị bao vây tại Morleys Hall bởi giáo đoàn vũ trang 400 người. Ambrose buộc phải đầu hàng, và các giáo dân của ông được thả.
Vị linh mục bị khống chế, được một nhóm 60 người hộ tống đến toà Công Lý Hòa Giải tại Winwick trước khi được chở đến Lâu đài Lancaster. Ambrose xuất hiện trước chủ tọa phiên tòa, ông tuyên bố không bao giờ từ bỏ đức tin Công giáo và nhận kết án tử hình.
Ngày 15 tháng 12 năm 1929, Giáo hoàng Pius XI đã tuyên bố Ambrose là Chân Phước (Á Thánh) tại vương cung thánh đường Thánh Peter, thành phố Vatican. Để ghi nhận số lượng lớn các vị tử đạo Công giáo Anh đã bị hành quyết trong thời kỳ cải cách, giáo hoàng Paul VI đã ra sắc lệnh rằng vào ngày 25 tháng 10 năm 1970, sẽ phong Thánh cho 40 vị tử đạo của Anh và xứ Wales, mà Thánh Ambrose Edward Barlow là một trong số đó.
-
Thánh Magdalena Morteska sinh ngày 2 tháng 12 năm 1554. Bà là tu viện trưởng của các nữ tu dòng Benedictines ở Chelmno, là nhà thần bí và nhà văn học tôn giáo.
Magdalena Morteska xuất thân từ một gia đình quý tộc giàu có đến từ hoàng gia Ba Lan. Cha bà là quan thị vệ và mẹ là em gái của giám mục Chelmno. Bất chấp sự ngăn cấm của cha, Magdalena đã vào tu viện vào năm 1578. Vào ngày 4 tháng 6 năm 1579, bà tuyên khấn trọn đời. Một tuần sau đó, khi chỉ mới 25 tuổi, Magdalena được bầu làm trưởng tu viện.
Bà đã lãnh đạo tu viện Benedictine thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong thời kỳ cải cách và sửa đổi các quy tắc của Thánh Benedict, bổ sung tính chất chiêm niệm bằng việc dạy dỗ các bé gái. Magdalena vực dậy tâm linh bằng cách giới thiệu thiền định, đồng thời hạn chế những khuyến nghị khổ hạnh quá khắt khe. Một trong những nhiệm vụ của tu viện là mang đến nền giáo dục cho các cô gái như: đọc, viết, tính toán, ca hát và thủ công. Nó đã góp phần phát triển việc giáo dục cho phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc và trung lưu thời đó.
Quy tắc cải cách của Magdalena được giáo triều La Mã chấp nhận vào năm 1605; và năm 1606, nó đã được Giám mục Wawrzyniec Gembicki chính thức chấp thuận. Năm 1589, Magdalena giành được quyền sở hữu tu viện Cistercian ở Zarnowiec - nơi bà đổi thành tu viện Benedictines. Tiếp theo năm 1603, Magdalena thành lập tu viện ở Byslawek với tư cách là một chi nhánh của Chelmno, và tu viện ở Lviv. Trong những năm 1604–1624, theo sáng kiến của bà, những tu viện khác ở Poznan, Jaroslaw, Sandomierz, Sierpc cùng Grudziadz được lập nên. Tổng cộng, giáo đoàn Chelmno đã có hơn 20 tu viện dưới sự lãnh đạo của nữ tu viện trưởng Magdalena Morteska. Tuy nhiên, sự phát triển hơn nữa của các nền tảng mới cùng nền giáo dục tu viện đã bị dừng lại bởi một trận dịch và cuộc chiến với Thụy Điển năm 1626-1629. Bà cũng thành lập một chủng viện thần học ở Poznan, tham gia thành lập trường cao đẳng Dòng Tên ở Torun vào năm 1593. Trong thời gian cai trị của Magdalena, một số công trình xây dựng đã được thực hiện ở Chelmno, bao gồm việc bổ sung thêm một số nhà nguyện vào nhà thờ, cũng như xây dựng lại các tòa nhà của tu viện.
Thánh Magdalena Morteska qua đời ngày 15 tháng 2 năm 1631, sau một cơn bạo bệnh kéo dài khoảng 1 tháng. Không lâu sau đó, một tu sĩ Dòng Tên tên là Stanislaw Brzechwa đã viết về cuộc đời bà nhằm chuẩn bị cho quá trình phong Chân Phước. Thi hài Thánh Magdalena sau đó được chuyển đến hầm mộ phía trước bàn thờ lớn của nhà thờ tu viện. Bà đã để lại rất nhiều lá thư. Hơn nữa, còn là tác giả của hai tác phẩm văn xuôi xuất sắc góp phần vào nền văn học tôn giáo và thần bí Baroque. Cả hai đều được tạo ra như một bản ghi âm các bài giảng trong tu viện của Magdalena dành cho các nữ tu, và được các chị em tu sĩ viết lại trong nhiều năm qua.
-
Thánh Gerard là giám mục đầu tiên của Csanad ở vương quốc Hungary từ khoảng năm 1030 cho đến khi qua đời. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Venice. Sau một cơn bạo bệnh, Gerard được gửi đến tu viện Benedictines San Giorgio khi mới 5 tuổi. Ông nhận được nền giáo dục tu viện xuất sắc; bao gồm việc học ngữ pháp, âm nhạc, triết học và luật.
Gerard rời Venice để hành hương đến Thánh địa vào khoảng năm 1020, nhưng một cơn bão đã buộc ông phải dừng cuộc hành trình gần Istria. Gerard quyết định đến thăm vương quốc Hungary và được bổ nhiệm làm gia sư cho con trai của nhà vua Stephen I là Emeric. Trong những năm tiếp theo, Gerard đã xây dựng một nhà nguyện ở chân một ngọn đồi, và viết các nghiên cứu thần học cùng bài giảng. Ông đến khu vực đồi Bakony để sống như một ẩn sĩ trong 7 năm. Vào khoảng năm 1030, sau cuộc chinh phục lãnh thổ của Ajtony, vua Stephen I đã triệu tập Gerard từ nơi ẩn náu của ông và phong ông làm giám mục của giáo phận Csanad mới thành lập (bao gồm Banat ở Serbia, Romania và Hungary ngày nay). Các tu sĩ dòng Benedictines đã giúp ông rao giảng cho người dân địa phương.
Khi vua Stephen I qua đời vào ngày 15 tháng 8 năm 1038. Cháu trai của ông ấy là Peter Orseolo lên ngôi, nhưng lại bị truất ngôi vào năm 1041. Người kế vị tiếp theo là Samuel Aba, ông ta đã cho xử tử nhiều lãnh chúa. Cho đến khi hoàng đế La Mã Henry III xâm lược vương quốc Hungary và đánh bại Samuel Aba trong trận chiến năm 1044. Peter Orseolo đã được phục hồi quyền cai trị, nhưng ông ấy lại không được lòng dân.
Sự tử đạo của Thánh Gerard diễn ra vào ngày 24 tháng 9 năm 1046, trong cuộc nổi dậy của người ngoại đạo Vata. Ông được phong Thánh năm 1083, và hiện là một trong những vị Thánh bảo trợ của Hungary. Ngày lễ kính là ngày 24 tháng 9 hàng năm.