Top 12 Vị Thánh Công Giáo nổi bật được phong Tiến Sĩ Hội Thánh
Tiến Sĩ Hội Thánh là những vị Thánh vĩ đại được biết đến với việc bảo vệ và giải thích các chân lý của đức tin công giáo thông những bài viết hoặc nghiên cứu ... xem thêm...của họ. Cùng với sự đóng góp đáng kể về mặt thần học, đó cũng là người thể hiện được mức độ thánh thiện cao. Đây là lý do tại sao tất cả trong số họ đều được phong Thánh.
-
Thánh Jerome sinh ra tại Stridon - một thị trấn ở Dalmatia (Croatia ngày nay) vào khoảng năm 340 sau Công nguyên. Việc học sớm về lập luận và hùng biện, cùng với việc làm quen với cả văn học Latinh, văn học Hy Lạp đã tạo tiền đề cho những nỗ lực trong tương lai của ông. Là một người có ảnh hưởng vào thế kỷ thứ IV, cũng là người có các tác phẩm, ý tưởng thần học và bản dịch kinh Thánh sang tiếng Latinh (“bản Vulgate”) gây được tiếng vang cho đến ngày nay. Đời sống khổ hạnh của ông mang những nét đặc trưng giống với Thánh John Tẩy Giả.
Thánh Jerome đã trải qua bốn năm đầu trưởng thành của mình trong sa mạc Chalcis ở Syria - nơi mà ông soạn những lá thư đầu tiên về thần học và chủ nghĩa khổ hạnh. Cuộc đời của ông có ảnh hưởng lớn đến nỗi ông đã trở thành một trong bốn người đàn ông được Giáo hoàng Boniface VIII tuyên bố là Tiến sĩ Giáo Hội vào thế kỷ XIII. Ngày lễ của Thánh Jerome là ngày 30 tháng 9 tại Nhà thờ Công giáo La Mã và ngày 15 tháng 6 tại Nhà thờ Chính thống Đông phương.
Điều kiện tiên quyết để được tuyên bố là Tiến sĩ Hội Thánh là có những đóng góp quan trọng về thần học thông qua việc viết lách, học tập, nghiên cứu. Các tác phẩm của ông chắc chắn phù hợp với điều kiện đó, vì ông đã viết rất nhiều trong suốt cuộc đời dài 80 năm của mình.
Kho văn bản của Thánh Jerome bao gồm các tác phẩm về kinh Thánh, các bài bình luận, chuyên luận, các bức thư về nhiều chủ đề khác nhau; Bao gồm cả việc bác bỏ các dị giáo phổ biến thời bấy giờ, chẳng hạn như dị giáo Arian. Và cũng là sự bảo vệ học thuyết về việc đồng trinh trọn đời của Đức Maria. Tuy nhiên, đóng góp quý giá nhất của ông cho đức tin chính là bản dịch Cựu Ước và Tân Ước lần lượt từ tiếng Do Thái, cùng tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh... Bản dịch này được xem là có thẩm quyền cũng như được gọi là phiên bản kinh Thánh “Vulgate” - Kinh thánh chính thức của Giáo hội La Mã.
Ngoài tác phẩm về Vulgate, nhiều tác phẩm của Thánh Jerome cũng đề cập đến các chủ đề gây tranh cãi. Đồng thời ông có một phong cách viết bốc đng, đôi khi mang tính châm biếm, điều này tạo ra một số xích mích với những người có quan điểm trái ngược với lập luận của ông.
-
Thánh Augustine sinh năm 354 tại Tagaste - Châu Phi. Ông được nuôi dưỡng trong đức tin Cơ đốc giáo nhưng không được rửa tội, đây là điều phổ biến trong các thế kỷ đầu tiên - trì hoãn việc này cho đến khi trưởng thành. Là một cậu học sinh đầy tham vọng với những tài năng xuất chúng cùng đam mê bạo lực, ông đã sớm đánh mất cả niềm tin và sự ngây thơ của mình.
Thánh Augustine say mê theo đuổi việc nghiên cứu triết học. Ông dạy ngữ pháp, hùng biện, cùng văn học trong 9 năm tại thị trấn quê hương Tagaste và ở Carthage. Ông vẫn tiếp tục cuộc sống bất thường cùng những sai lầm về giáo lý cho đến năm 32 tuổi.
Khi còn là một sinh viên hùng biện xuất sắc ở Milan - nơi Thánh Ambrose làm Giám Mục, Augustine kể trong cuốn tự truyện của mình về đức tin Công giáo thời thơ ấu đã chiếm lĩnh trí tuệ ông, nhưng ông vẫn chưa thể quyết tâm phá vỡ xiềng xích từ thói quen xấu. Nhờ một người bạn của mình, Augustine đã đọc một cuốn Sách của Thánh Paul. Ông tìm ra được chân lý cuộc đời, sau đó liền đến gặp một linh mục và được rửa tội. Trở về Châu Phi, ông trao hết tất cả những gì mình có cho người nghèo. Tại Hippo - nơi ông định cư, ông được tấn phong Giám Mục năm 395.
Trong 35 năm, Thánh Augustine là trung tâm của đời sống Giáo Hội tại Châu Phi, cũng là người mạnh mẽ nhất trong Giáo Hội chống lại dị giáo. Các bài viết của ông, bao gồm nhiều tập đã được chấp nhận ở khắp mọi nơi như một nguồn chính của cả tâm linh Kito giáo và suy đoán thần học. Vị Tiến sĩ vĩ đại đã qua đời trong sự tiếc thương sâu sắc của toàn bộ thế giới Cơ Đốc giáo năm 430.
-
Thánh Thomas Aquinas sinh năm 1226, là con trai của Landulph - bá tước xứ Aquinas. Thời còn đi học, các thầy rất ngạc nhiên về sự tiến bộ của ông vượt trội hơn tất cả các bạn đồng môn, trong học tập cũng như trong việc rèn luyện nhân đức. Khi đến tuổi phải lựa chọn bậc sống cho mình, ông đã từ bỏ mọi sự của thế gian, quyết định gia nhập Dòng Thánh, bất chấp sự phản đối từ gia đình.
Năm 1243, ở tuổi mười bảy, Thánh Thomas Aquinas gia nhập Dòng Dominic ở Naples. Một số thành viên trong gia đình ông đã dùng mọi cách trong khoảng thời gian hai năm để phá vỡ sự kiên định của ông. Thậm chí họ còn thuê một người đàn bà ô uế đến cám dỗ ông. Nhưng mọi nỗ lực đều vô ích vì ông đã kiên trì trong ơn gọi của mình. Như một phần thưởng cho lòng trung thành, Thiên Chúa đã ban ơn khiết tịnh hoàn hảo cho ông, điều này rất xứng đáng với tước hiệu “Tiến sĩ Thiên Thần”.
Sau khi tuyên khấn tại Napoli, Thánh Thomas theo học ở Cologne dưới sự hướng dẫn của Thánh Albert Đại Đế nổi tiếng. Tại đây, ông được đặt biệt danh là “con bò câm” vì tính cách im lặng cùng thân hình to lớn. Nhưng ông thực sự là một học sinh xuất sắc. Năm hai 20 tuổi, ông được bổ nhiệm dạy học tại cùng một thành phố. Đồng thời, cũng bắt đầu xuất bản những tác phẩm đầu tiên của mình. Sau 4 năm, Thánh Thomas được gửi đến Paris, lúc đó là ông đã là một linh mục. Năm ba 31 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ. Năm 1261, Giáo Hoàng Urban IV gọi ông đến Rome - nơi ông được bổ nhiệm giảng dạy, nhưng ông từ chối chấp nhận bất kỳ phẩm giá nào của giáo hội.
Thánh Thomas không chỉ viết mà ông còn thường xuyên rao giảng về đạo. Giáo Hoàng Clement IV đã đề nghị ông làm Tổng Giám Mục của Napoli nhưng ông lại tiếp tục từ chối. Ông đã để lại công trình kiến thức vĩ đại của mình mang tên “Summa Theologica” chưa được hoàn thành, vì trên đường đến công đồng Lyons thứ hai, theo lệnh của Giáo Hoàng Gregory X, Thánh Thomas Aquinas không may ngã bệnh và qua đời tại tu viện Xito Fossa Nuova vào năm 1274. Ông là một trong những nhà thần học vĩ đại và có ảnh hưởng nhất. Được chính thức phong Thánh năm 1323, được Đức Giáo hoàng Pio V tuyên bố là Tiến sĩ của Hội Thánh.
-
Thánh Theresa của Ávila sinh năm 1515, tại miền trung Tây Ban Nha, trong một gia đình thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ - cha của bà được phong tước hiệp sĩ. Thời thơ bé, bà đã mơ ước trở thành một người tử vì đạo, hoặc một ẩn sĩ. Khi quyết định theo đạo, bà vào tu viện Carmelite của Ávila. Tu viện này rất lớn, nhiều nữ tu mang cả địa vị xã hội của họ vào đây, lập nên nhà bếp, phòng nguyện cùng phòng khách riêng. Mặc dù tu viện không gây tai tiếng gì, nhưng nó cũng chẳng sản sinh ra vị Thánh nào. Về phấn Thánh Teresa, bà vẫn cầu nguyện đều đặn, tuân giữ luật lệ, chịu đựng những cuộc ăn chay cũng như hành xác bình thường.
Đến năm 20 tuổi, bà bị sốt rét, lên cơn co giật và mọi người nghĩ rằng bà đã qua đời. Bốn ngày sau, khi tỉnh dậy, bà phát hiện ra rằng một phần mộ đã được đào sẵn cho mình. Thánh Teresa sau đó bị liệt trong suốt 3 năm. Khi đọc một số tác phẩm tiêu biểu về cầu nguyện trong tâm trí, bà dần tin rằng tu viện của mình quá lỏng lẻo, giáo hội cần đòi hỏi nhiều hơn như thế.
Được truyền cảm hứng từ những nhà cải cách vĩ đại trong thế kỷ, và nhiều người trong số họ cũng là người Tây Ban Nha, bà quyết định thành lập một tu viện Carmelite mới. Tuy nhiên, đã có sự phản đối gay gắt từ bên trong tu viện của bà, cũng như từ Dòng Carmelite nói chung. Cuộc cải cách của Thánh Teresa bắt đầu vào giữa những năm 1550, đơm hoa kết trái khi tu viện đầu tiên được mở cửa tại Ávila năm 1562. Các nữ tu sẽ không đi giày, được giới hạn ở tối đa 13 người trong mỗi tu viện, không chấp nhận của hồi môn hay của cải mang theo. Họ phải thực sự trở thành những người nghèo khó, ăn chay, hãm mình, đồng thời cầu nguyện sốt sắng.
Thánh Teresa đã dành 20 năm cuối cùng của mình để đi khắp Tây Ban Nha thành lập các tu viện mới. Đến tuổi trung niên, bà rất nổi tiếng về sự thánh thiện, về chủ nghĩa thần bí hợp pháp, về sự niềm nở và sự vâng lời hoàn toàn đối với giáo hội. Dòng Carmelite được trao cho tỉnh dòng Tây Ban Nha của riêng họ vào năm 1580, được công nhận là một nhà dòng riêng biệt năm 1594 - mười hai năm sau sự qua đời của bà.
Năm 1622, bà được phong Thánh cùng với Thánh Philip Neri, Thánh Ignatius thành Loyola và Thánh Francis Xavier. Và đặc biệt, Thánh Teresa của Ávila là người phụ nữ không tử đạo đầu tiên được mở rộng ngày lễ của mình cho giáo hội hoàn vũ.
-
Thánh John Chrysostom sinh năm 347 tại Antioch, là một thiên tài vĩ đại. Trong sự giằng co của các cuộc tranh luận thần học ở thế kỷ thứ IV và thứ V, ông đã trở thành một nhân vật tiêu biểu cùng với những nhân vật nổi tiếng khác như Thánh Ambrose, Thánh Athanasius, Thánh Hilary, Thánh Basil,… Ông nhận được một nền giáo dục xuất sắc về nghệ thuật tự do, được rửa tội ở tuổi 18 - việc này phù hợp với phong tục rửa tội phổ biến dành cho người lớn trong thời đại ấy.
Thánh John Chrysostom đã tham gia một nhóm ẩn sĩ mộc mạc trên những ngọn đồi bên ngoài quê hương của mình vào năm 20 tuổi. Tuy nhiên, các điều kiện khắc nghiệt về thể chất và tâm lý đến mức ông phải rời đi sau 7 năm. Được thụ phong linh mục vào năm 386, Giám Mục đã công nhận những năng khiếu của ông và giao ông phụ trách chăm sóc thể chất cùng mục vụ cho người nghèo ở Antioch - một chức vụ mà ông đã mài giũa những năng khiếu bẩm sinh của mình với tư cách là một nhà thuyết giáo. Thánh John thuyết giảng tài giỏi đến nỗi, dù một thế kỷ sau khi ông qua đời, ông vẫn được phong danh hiệu “Kim Tinh”. Sự nhạy bén về thần học của ông cũng không kém phần ấn tượng. Các bài giảng và các bức thư thể hiện sự hiểu biết tinh tế về những điều phức tạp của Chúa Ba Ngôi cũng như của các sách phúc âm.
Năm 398, Thánh John được phong làm Tổng Giám mục Constantinople-Tân La Mã, khiến một số người đương thời ghen tị. Ông không ủng hộ bản thân với những cải cách quá khích, dù với tư cách là Tổng Giám Mục. Tuy nhiên, vì một số lời chỉ trích của mình mà ông bị buộc tội phản quốc cùng các tội danh khác, sau đó bị lưu đày vào năm 402. Thánh John được phục chức sau một trận động đất ở Constantinople, nhiều người truyền miệng rằng đó là sự trừng phạt của thần thánh đối với việc trục xuất ông. Nhưng ông lại tiếp tục bị lưu đày lần thứ hai ngay sau đó. Giống như các vị Thánh khác, thời gian lưu đày của ông mang lại nhiều kết quả. Ông viết rất nhiều thư, đặc biệt là cho các Giám Mục ở đế quốc phương Tây, bao gồm cả Giáo Hoàng. Nhưng cũng giống như các Giáo Hoàng và Giám Mục bị lưu vong khác, sự trợ giúp thiết thực không bao giờ thành hiện thực.
Thánh John Chrysostom qua đời trong cuộc sống lưu vong năm 407. Trong vòng một thập kỷ sau đó, danh tiếng của ông đã được phục hồi bởi Giáo Hoàng, và hài cốt được chuyển đến chôn cất tại Constantinople. Ông được Công đồng Chalcedon công nhận là Cha của Giáo Hội năm 451, được tuyên bố là Tiến sĩ Hội Thánh năm 1568.
-
Thánh Cyril của Jerusalem được sinh ra vào khoảng năm 315 sau công nguyên. Người ta biết rất ít về quá trình thời gian đầu đời của ông, ngoài việc ông được giáo dục tốt về kinh thánh và triết học. Ông đã được phong chức phó tế ở nhà thờ Jerusalem vào khoảng năm 20 tuổi bởi Thánh Macarius - Giám Mục của Jerusalem, cũng là một người kiên quyết chống đối dị giáo Arian lúc bấy giờ. Sau khi Thánh Macarius qua đời, Thánh Maximus lên thay vị trí Giám Mục và phong chức linh mục cho Cyril, lúc ấy ông khoảng 28 tuổi.
Trong sứ vụ linh mục của mình, Cyril đã trở thành mục tử đích thực của các linh hồn. Ông được Đức Cha Maximus giao phó trách nhiệm phụ tá giảng thuyết và dạy giáo lý. Cyril đã thuyết giảng vào mỗi ngày chúa nhật cũng như dạy giáo lý cho những người chuẩn bị lãnh nhận các bí tích khai tâm. Một bộ gồm 24 bài giáo lý của ông đã được bảo tồn, nội dung rất đáng chú ý về sự rõ ràng và chi tiết.
Vào năm 348, Giám Mục Maximus qua đời, sau đó Cyril được chọn để kế vị ngài ấy. Ông được tấn phong Giám Mục bởi Tổng Giám Mục Acacius của Caesarea Maritima - từ khu đô thị phía tây Jerusalem. Ngay sau khi ông trở thành Giám Mục, một dấu hiệu kỳ lạ mà tất cả mọi người đều nhìn thấy đã xuất hiện trên thánh địa - nơi Chúa Jesus bị đóng đinh. Đó là một vệt sáng lớn xuất hiện trên bầu trời được bao quanh bởi cầu vồng và kéo dài khoảng hai dặm. Dấu hiệu này ban đầu được coi là sự khẳng định của Thiên Chúa đối với ông. Nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy những đau khổ mà Cyril sắp phải chịu đựng. Và nó đã bắt đầu khi ông chiến đấu với Giám Acacius vì họ không cùng tư tưởng. Trong khi ông vô cùng phản đối dị giáo Arian, còn Giám Mục Acacius thì ngược lại. Do những căng thẳng này, Giám Mục Acacius cùng với hoàng đế và các Giám Mục Arian khác đã bức hại Cyril. Họ đưa ra những cáo buộc sai trái chống lại ông, phế truất cũng như trục xuất ông khỏi Jerusalem ba lần trong gần 40 năm làm Giám Mục.
Mặc dù phải chịu đựng những tranh cãi về thần học, về chính trị của Giáo hội; ông vẫn là một mục tử đích thực, rao giảng và dạy giáo lý giống như ông đã làm với tư cách là một linh mục. Cách tiếp cận nhẹ nhàng, hòa giải, khiêm tốn của ông đối với chức vụ của mình đã khiến một số Giám Mục chính thống nghi ngờ ông có thiện cảm với người Arian. Chính vì lý do đó, khi trở về sau cuộc lưu đày cuối cùng vào năm 378, Thánh Gregory của Nazianzens đã được cử đến để điều tra ông. Kết luận cho thấy Cyril là chính thống, điều này đã chấm dứt mọi nghi ngờ.
Năm 381, Công đồng Constantinople đã làm sáng tỏ thêm về Dị giáo Arian, làm rõ hơn Tín điều Nicaea và khẳng định chức vụ Giám Mục Jerusalem của ông. Vì vậy, ông trở lại tiếp tục là người chăn chiên thánh thiện của dân tộc mình cho đến khi qua đời vào 6 năm sau đó. Thánh Cyril của Jerusalem được phong là tiến sĩ Giáo Hội bởi Giáo Hoàng Leo XIII năm 1883.
-
Thánh Anthony thành Padua sinh năm 1195 tại Lisbon-Bồ Đào Nha, trong một gia đình quý tộc giàu có, điều kiện gia đình cho phép ông được đi học vào thời mà nạn mù chữ còn phổ biến.
Năm 15 tuổi, Anthony tham gia một dòng tu công giáo tuân theo quy tắc của Thánh Augustine. Sớm bị thu hút bởi lối sống của các tu sĩ dòng Francis - những người mà ông đã gặp khi ở Coimbra. Nên ông quyết định tham gia cùng họ sau khi biết về sự qua đời của 5 anh em bị xử trảm ở Maroc vì cố gắng truyền bá Cơ Đốc Giáo ở đất nước này. Được truyền cảm hứng bởi sự tử đạo của họ, ông đã gia nhập một ẩn thất tại Olivais và đổi tên của mình từ Fernando thành Anthony. Sau một thời gian ngắn ở Maroc, Sicily, Tuscany; ông đến Forli (Romagna) vào năm 1222, được mời giảng cho một nhóm tu sĩ dòng Dominic. Bị ấn tượng bởi tài hùng biện cùng sự hiểu biết về kinh Thánh của ông, giáo đoàn liền cử ông đến Romagna - nơi mà ông gặp người sáng lập dòng Francis thành Assisi. Sau đó, Thánh Anthony giảng dạy và thuyết giảng, cuối cùng trở thành bề trên giám sát tỉnh miền bắc nước Ý, đồng thời định cư tại thành phố Padua.
Ông qua đời vì chủ nghĩa công thái học vào năm 1231. Sau đó, chưa đầy 12 tháng khi qua đời, ông được Giáo Hoàng Gregory IX phong Thánh vào năm 1232. Năm 1946, vì nghiên cứu kinh Thánh cặn kẽ, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã tuyên phong ông là “Tiến Sĩ Hội Thánh” và ban tước hiệu.
Tại Đất Thánh, Thánh Anthony thành Padua có một tầm quan trọng đặc biệt. Sự đơn sơ, tận tụy của ông đối với Thiên Chúa đã biến ông thành một người mẫu mực cho đời sống cũng như tâm linh của đạo Cơ Đốc. Năm 1920, Đức Benedicto XV tôn ông làm Thánh Quan Thầy sau khi ông cầu bầu cho họ trong cuộc xung đột giữa Anh-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1917.
-
Thánh Catherine của Siena cùng với Thánh Teresa của Ávila là một trong hai người phụ nữ đầu tiên được phong tiến sĩ Hội Thánh. Bà được sinh ra ở Siena năm 1347. Từ sớm đã quyết định không kết hôn, và sau vài năm cầu nguyện cùng ăn chay, bà bắt đầu một cuộc sống phục vụ tích cực.
Thánh Catherine hằng ngày đều chăm sóc người bệnh tại một bệnh viện địa phương. Đáng chú ý trong thời gian đó là sự trợ giúp của bà cho các bệnh nhân trong đại dịch năm 1374. Khi còn trẻ, bà luôn tin rằng mình được ơn kêu gọi rao giảng tin mừng. Thế nên, Thánh Catherine đã tổ chức một nhóm người đi cùng mình trong những chuyến truyền giáo. Là một người luôn ủng hộ Giáo Hội, bà đã công khai đề cao các chức vụ Giáo Hoàng, Giám Mục và Giáo Sĩ với tư cách là đại sứ của Chúa Kito. Nhưng bà cũng là người đã chỉ trích gay gắt những lạm dụng mà bà thấy ở nhiều thành viên trong hàng giáo phẩm cùng hệ thống cấp bậc của nhà thờ. Bà tin rằng họ nên đón nhận cảnh khó nghèo, có tinh thần khiêm tốn hơn thay vì sống trong sự xa hoa trần tục đầy tham vọng với sự phù phiếm tự phụ.
Tuy nhiên, Thánh Catherine biết rằng không thể có cuộc cải cách lâu dài đối với Giáo Hội nếu không có sự lãnh đạo mạnh mẽ của Giáo Hoàng. Năm 1376, bà gặp Giáo hoàng Gregory XI ở Avignon-Pháp, nơi ông ấy đã bị trục xuất từ năm 1309, và thúc giục ông trở về Rome. Trong một bức thư, bà nhấn mạnh rằng ông phải “dũng cảm” chứ không phải “hèn nhát”. Bức thư của Catherine đã củng cố quyết tâm của Giáo Hoàng và ông trở lại Rome năm 1377.
Sau sự qua đời của Giáo Hoàng Gregory vào năm sau đó, cùng cuộc bầu cử của Giáo hoàng Urban VI, cuộc đại ly giáo đã xảy ra. Trong 39 năm tiếp theo, có ít nhất 3 người tuyên bố ngôi vị Giáo Hoàng. Thánh Catherine thường xuyên viết thư cho nhiều nhà chức trách các nhà thờ, khuyến khích họ công nhận Urban là người kế vị hợp pháp cho vị trí này. Trong những năm 1377 đến 1378, bà đã viết quyển đối thoại về những suy tư của mình trong đời sống thiêng liêng. Nhiều tác giả nhấn mạnh rằng tác phẩm lớn về thần học thần bí này xứng đáng đứng bên cạnh những tác phẩm kinh điển vĩ đại khác. Chẳng hạn như tác phẩm của hai tiến sĩ Hội Thánh: Teresa của Ávila và John The Cross (John Thánh Giá). Giáo hoàng Urban đã mời bà đến Rome vào năm 1380 để hỗ trợ cho vị trí Giáo Hoàng của ông, nhưng trên đường đi, bà bị đột quỵ.
Thánh Catherine của Siena qua đời ngày 29 tháng 4 năm 1380. Được phong Thánh năm 1461, trở thành một trong những các vị Thánh bảo trợ của nước Ý. Bà được tuyên bố là tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1970 và là vị Thánh bảo trợ của Châu Âu năm 1999.
-
Thánh Peter Damian sinh năm 1007, là con út trong một gia đình nghèo nhưng quyền quý ở Ravenna-Ý. Cha mẹ ông qua đời khi ông vẫn còn nhỏ, vì vậy ông đến sống với một trong những người anh trai của mình, người này đã ngược đãi và bắt ông phải làm việc như một người ở đợ. Cuối cùng, một người anh em khác là linh mục từ Ravenna, tên là Damian, đã nhận nuôi dưỡng và cung cấp cho ông một nền giáo dục rất tốt. Thánh Peter rất biết ơn người anh linh mục này, đến nỗi ông đã thêm tên của ngài ấy vào tên của mình, điều này khiến ông có tên là Peter Damian.
Sau khi học xong, ông bắt đầu việc giảng dạy với nhiều thành công. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra rằng môi trường đại học không dành cho mình, vì vậy ông rút lui đến một tu viện ở Fonte-Avellana để nhập thất 40 ngày. Sau khi hoàn tất khóa tu, ông nhận ra ơn gọi tu trì và bắt đầu trở thành một tu sĩ thật sự.
Là một tu sĩ, Thánh Peter Damian sống một đời ẩn dật cầu nguyện, cũng như sám hối cực độ. Cuối cùng, năng khiếu trí tuệ của ông đã được sử dụng khi có yêu cầu ông dạy lại cho những người bạn tu sĩ. Trong vài năm tiếp theo đó, ông giảng dạy trong các tu viện khu vực và lân cận, đồng thời bắt đầu viết. Năm 1043, ở tuổi 35, Thánh Peter Damian được bổ nhiệm làm bề trên tại tu viện của mình. Ông lãnh đạo anh em với lòng nhiệt thành, trung thành với các quy tắc. Ông cũng bắt đầu thành lập những ẩn thất mới ở các ngôi làng xung quanh.
Vào thời điểm đó, Giáo Hoàng Benedict IX là một Giáo Hoàng thực sự tai tiếng, người đã lên ngôi nhờ hối lộ. Năm 1045, vị Giáo Hoàng này quyết định từ bỏ ngôi vị để kết hôn với người em họ của mình. Trước khi làm như vậy, ông đã viết thư cho cha đỡ đầu là linh mục John Gratian, để xin lời khuyên. Là một người thánh thiện, Gratian khuyến khích ông từ chức, và đó là điều mà Benedict đã làm. Ông ấy để lại ngôi vị Giáo Hoàng cho linh mục Gratian - người trở thành Giáo Hoàng Gregory VI.
Thánh Peter Damian vô cùng vui mừng trước sự thay đổi này, ông viết thư cho Tân Giáo Hoàng, khuyến khích ngài giải quyết nạn tham nhũng cùng những bê bối trong Giáo Hội. Trong những năm sau đó, Giáo Hoàng đã kêu gọi Thánh Peter Damian giúp đỡ hoàn thành mục tiêu. Ông viết nhiều lá thư với nỗ lực mang lại những cải cách trong hàng giáo sĩ, đấu tranh chống lại việc bán các chức vụ trong Giáo Hội, giải quyết nhiều vụ lạm dụng tình dục.
Năm 1057, ông được Giáo Hoàng phong làm Hồng Y-Giám Mục tại Ostia, bất chấp sự từ chối của ông. Là một hồng y mới, Thánh Peter Damian nhanh chóng kêu gọi các Hồng Y khác cố gắng loại bỏ tham nhũng. Cuối cùng, ông trở lại ẩn thất của mình và tiếp tục cuộc sống cầu nguyện, nhưng lòng nhiệt thành của ông trong việc chiến đấu chống lại những điều xấu xa của thời đại vẫn tiếp tục. Hết Giáo Hoàng này đến Giáo Hoàng khác đều kêu gọi ông giúp đỡ, ngay cả khi các nhà lãnh đạo khác của Giáo Hội phản đối ông.
Năm 1072, ở tuổi 65, sau khi trở về từ một nhiệm vụ ở Ravenna, ông bị hành sốt. Một tuần bị bệnh trong một tu viện gần quê hương, ông đã qua đời. Năm 1828, ông đã được chính thức tuyên bố là Tiến Sĩ Hội Thánh.
-
Thánh Peter Canisius, sinh năm 1521 tại Hà Lan, ông theo học Đại học Cologne. Trong thời gian học tập, ông đã cầu nguyện tại tu viện Carthusian và quen biết một trong những tu sĩ dòng Tên đầu tiên. Sau một thời gian phân định, ông quyết định gia nhập dòng Tên.
Thánh Peter Canisius được thụ phong linh mục vào năm 1546. Chỉ một năm sau đó, ông tham gia phiên họp của công đồng Trent với tư cách là Giám Mục người Đức. Ngay khi có kinh nghiệm ở cấp độ cao nhất trong đời sống Giáo Hội, ông được Thánh Ignatius của Loyola gửi đến dạy ở một trường đại học nhỏ tại dòng Tên. Việc này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, vì sự uyên bác cũng như kỹ năng của ông đã được định sẵn để có thể tiến xa hơn.
Peter là một học giả làm việc, giảng dạy, rao giảng; ông đã làm tốt tất cả mọi thứ. Ông biên tập các tác phẩm của Thánh Cyril Alexandria, Thánh-Giáo Hoàng Leo the Great, và Thánh Jerome. Ông cũng từng viết hơn 8.000 trang thư cho mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Peter không ngừng sàng lọc các sách giáo lý bình dân của mình, và ông đã làm việc trong nhiều năm với các học giả khác để biên soạn một tác phẩm về lịch sử Giáo Hội nhằm chống lại cuốn sách lịch sử nổi tiếng của đạo Tin lành bóp méo sự thật về vai trò của Công giáo trong lịch sử châu Âu.
Cuộc đời ông trải qua khắp Trung Âu trong một thời đại đầy căng thẳng tôn giáo. Sức mạnh chấn động từ cuộc cải cách Tin Lành đã làm choáng váng tiểu não của Trung Âu trong nhiều thập kỷ. Bạo lực lan ra từ nước Đức hết đợt này đến đợt khác. Khi Peter ở Vienna, mọi người dân và các hoàng tử đều muốn ông ở lại làm Giám Mục của họ. Nhưng Thánh Ignatius, bề trên đã nói “không”, vì kỹ năng của ông cần hơn ở nơi khác. Sau đó, ông đến ở Praha, bắt đầu với các trường đại học dòng Tên, rao giảng cho những nhà thờ vắng người; tiếp theo, là Bavaria rồi Thụy Sĩ và Ba Lan. Lòng nhiệt thành, luôn học hỏi cùng sự thánh thiện của Thánh Peter là điều hiển nhiên. Ông coi phần lớn những người theo đạo Tin Lành là vô tội. Ông chỉ dành lời công kích hiếm hoi của mình cho chính những người dị giáo hoặc cho tri thức khác - những người lẽ ra phải biết rõ hơn. Ông phân biệt giữa những người cố tình bội đạo và những người là nạn nhân của hoàn cảnh.
Thánh Peter Canisius là một cơn bão không ngừng đã trút xuống kiến thức, sách vở, bài giảng cùng thư từ khắp Trung Âu. Ông mang lại sự bình tĩnh, điều độ cho một thời kỳ đầy bạo lực. Ông được phong Thánh và được tuyên bố là Tiến Sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, năm 1925.
-
Thánh John của Ávila, sinh năm 1499, ở vùng Castile-Tây Ban Nha. Năm 14 tuổi, ông được gửi đến Đại học Salamanca để học luật. Sau đó, ông chuyển đến Alcala - nơi ông học triết học và thần học trước khi được thụ phong linh mục giáo phận. Sau khi cha mẹ ông qua đời, họ đã để lại một khối tài sản đáng kể cho ông là người thừa kế duy nhất. Thánh John đã phân phát tiền của mình cho người nghèo. Năm 1527, ông đến Seville với hy vọng trở thành một nhà truyền giáo ở Mexico. Tổng Giám Mục của thành phố thuyết phục ông ở lại để truyền bá đức tin tại Andalusia. Trong 9 năm làm việc, ông nổi tiếng là một nhà giảng thuyết hấp dẫn, một vị linh hướng nhạy bén và là một cha giải tội khôn ngoan.
Thánh John của Ávila đã dành thời gian đi khắp một khu vực mới bị vương quốc Tây Ban Nha chinh phục gần đó. Đó vẫn là nơi sinh sống của những người Hồi Giáo và người Do Thái Tây Ban Nha. Trong cánh đồng truyền giáo mới mở này, nền giáo dục nhân văn rộng lớn của ông hoàn toàn phù hợp với nhu cầu mục vụ. Ông đã hài hòa thần học chính thống, chủ nghĩa nhân văn thời phục hưng, đạo đức nghiêm khắc cùng tâm linh sâu sắc thành một tổng hợp mạnh mẽ khi được chuyển tải qua lời rao giảng hấp dẫn, ông đã đưa các giáo đoàn đến tận cốt lõi của họ.
Khi Thánh John di cư qua các thành phố lớn ở miền nam Tây Ban Nha như: Seville, Córdoba, Granada; một số lượng lớn tín hữu khắp nơi đã đi theo ông, háo hức tiếp thu từng lời nói ra từ miệng hoặc ngòi bút của ông. Mọi người thuộc mọi tầng lớp, trình độ học vấn và mức độ tôn giáo đều thấy Thánh John thật hấp dẫn. Khi còn sống, ông được biết đến với cái tên "Master Ávila" vì sự thống trị đối với khoa học thiêng liêng cùng những nỗ lực mục vụ mạnh mẽ. Ông đã cải đạo sâu sắc, sáng lập ra dòng Hospitaller. Ông là bạn của Thánh Ignatius thành Loyola (người sáng lập Dòng Tên) và là cố vấn cho Thánh Teresa thành Ávila (người sáng lập dòng Carmelite). Bất chấp những điều này cùng nhiều mối quan hệ cá nhân khác với các dòng tu nổi tiếng cũng như những người sáng lập của họ, Thánh John luôn là một linh mục giáo phận, không phải là linh mục dòng tu - một điều bất ngờ đối với một linh mục tại thời đại của ông, với ảnh hưởng rộng rãi như vậy.
Sự uyên bác và những đức tính vững chắc của Thánh John càng được củng cố bởi cuộc đời nghèo khó, cũng như đau khổ về thể xác của ông. Ông trở thành một phần của tiếng kêu gọi cải cách nhà thờ lớn toàn châu Âu trước hội đồng Trent hàng chục năm. Ông thành lập một số chủng viện, cao đẳng; cung cấp linh hướng cho nhiều giáo dân, tu sĩ, chủng sinh.
Thánh John của Ávila được tuyên phong là Đấng Đáng Kính năm 1759, Chân Phước năm 1893, và Hiển Thánh năm 1970.
Ông được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI tuyên bố là Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 2012 - sau đơn thỉnh cầu của hàng Giám Mục Tây Ban Nha về việc vinh danh như vậy là hợp lệ, được Vatican nghiên cứu, chấp thuận.
-
Thánh Thérèse của Lisieux được sinh ra với tên Marie Françoise Thérèse Martin ở Alençon-Pháp, năm 1873. Bà là con gái út của Louis Martin - một thợ đồng hồ, kim hoàn và Zélie Guérin - một thợ làm ren. Khi Thérèse được bốn tuổi rưỡi, mẹ bà qua đời, để lại các con mình cho chồng; gồm Thérèse và các chị gái của bà: Marie, Pauline, Leonie và Celine.
Pauline đã trở thành người nuôi dưỡng Thérèse, nhưng nỗi đau mất mẹ quá sớm đã ảnh hưởng đến toàn bộ tuổi thơ của bà. Thérèse trở nên quá nhạy cảm, đến nỗi bà luôn khóc dù là những điều nhỏ nhặt nhất. Cha của bà đã chuyển cả nhà đến Lisieux để được ở gần gia đình người vợ quá cố. Khi Thérèse lên 8, bà đăng ký vào trường Benedictine Abbey với tư cách là một học sinh bán trú. Năm 14 tuổi, bà quyết định vào tu viện Carmelite ở Lisieux (2 chị gái của bà đã đi trước vào cùng tu viện đó). Dòng Carmelite đồng ý nhận bà.
Tuy nhiên, trở ngại đầu tiên chính là bề trên giáo hội giám sát tu viện đã quyết định rằng tốt nhất là Thérèse nên đợi cho đến năm 21 tuổi để vào. Nhưng bà đã quyết tâm để được ở lại đó. Sau khi trao đổi với Giám Mục địa phương và mọi việc không đi đến đâu, bà nghĩ rằng vấn đề sẽ phải được trình lên Đức Thánh Cha. Thérèse, cùng với cha và chị gái Celine đã có một chuyến đi đến Rome mà sau này đã thay đổi cuộc đời bà. Trong buổi gặp gỡ Đức Giáo Hoàng, bà đã nói chuyện và xin ngài cho phép mình vào dòng Carmelite. Giáo hoàng Leo XIII trả lời: "Con sẽ được vào nếu Thiên Chúa muốn." Ngay sau khi giải quyết xong mọi trở ngại, bà được vào tu viện Carmelite. Tại đó, Thérèse đã sống một cuộc đời khiêm tốn, giản dị, tin tưởng vào Chúa.
Ở tuổi 23, theo lệnh bề trên, bà bắt đầu viết cuốn tự truyện của mình “Histoire d'une âme” (Câu chuyện của một linh hồn). Nội dung của cuốn sách độc đáo này đưa ra những bằng chứng về tâm linh sâu sắc. Vào đêm giữa Thứ Năm Tuần Thánh và Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1896, Thérèse lần đầu tiên trải qua cơn ho ra máu do bệnh lao. Trong 18 tháng tiếp theo, tình trạng sức khoẻ của bà ngày càng xấu đi. Trước thời khắc sinh tử, bà đã cầu xin ân sủng, hứa rằng sau khi qua đời sẽ gửi "một cơn mưa hoa hồng" từ thiên đường, dâng những đau khổ của mình để cứu rỗi các linh hồn.
Ngày 30 tháng 9 năm 1897, Thánh Thérèse của Lisieux qua đời ở tuổi 24. Hai năm sau, cuốn tự truyện “Câu chuyện của một linh hồn” được xuất bản. Bà được phong Thánh năm 1925 và được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1997.