Top 10 Trường đại học có chương trình MBA tốt nhất trên Thế giới

Vũ Minh Hoàng 407 0 Báo lỗi

MBA - Thạc sỹ Quản trị kinh doanh là tấm bằng vô cùng danh giá ai cũng muốn sở hữu để thăng tiến trong sự nghiệp. Vì vậy, chọn trường đại học tốt nhất để theo ... xem thêm...

  1. Viện Đại học Leland Stanford Junior thường được gọi là Viện Đại học Stanford hay chỉ Stanford, là viện đại học tư thục thuộc khu vực thống kê Stanford, California (Hoa Kỳ). Stanford được biết đến với sức mạnh học tập, sự giàu có, gần gũi với Thung lũng Silicon và được xếp hạng là một trong những trường đại học hàng đầu thế giới. Khuôn viên chính của viện đại học này rộng rãi và đẹp đẽ, nằm cách San Francisco 60 kilômét về phía đông nam, nó ở phần chưa được sáp nhập của Quận Santa Clara bên cạnh thị trấn Palo Alto và nằm ở trung tâm Thung lũng Silicon cả về vị trí địa lý và lịch sử. Là viện đại học có diện tích lớn thứ hai trên thế giới, Viện Đại học Stanford có chương trình đầy đủ cho sinh viên đại học cũng như sinh viên sau đại học, cùng với một trung tâm y khoa nổi tiếng và nhiều trung tâm nghiên cứu và dự án phục vụ. Cùng với Viện Đại học Harvard, Viện Đại học Yale và Viện Đại học Princeton, Viện Đại học Stanford nằm trong nhóm những viện đại học tốt nhất của Hoa Kỳ. Viện Đại học Stanford được thành lập bởi Leland Stanford, trùm tư bản về đường xe lửa và Thống đốc California, và vợ ông, Jane Stanford. Viện đại học được đặt theo tên người con duy nhất của hai vợ chồng, Leland Stanford, Jr., anh chết do bệnh thương hàn khi còn trẻ. Những người dân địa phương và các thành viên của viện đại học thường gọi trường là The Farm ("Trại"), vì trường nằm tại địa điểm đã từng là trại nuôi ngựa của Leland Stanford.


    Đại học Stanford là một trường đại học nghiên cứu tư nhân chất lượng và uy tín tại California, Hoa Kỳ. Trường cung cấp chương trình MBA hai năm, học toàn thời gian cũng như một loạt các chương trình MBA kéo bao gồm: MBA/JD, MBA/MA, MBA/MD, MBA/MPP… Trong năm đầu tiên của chương trình, sinh viên sẽ theo học một chương trình quản lý tổng quan cốt lõi, bao gồm: Đạo đức trong quản lý, kế toán tài chính, quản lý nhóm, tối ưu hóa và mô phỏng, kinh tế vĩ mô, kế toán quản lý, tiếp thị, kinh tế học vi mô, hoạt động và chiến lược ngoài thị trường. Sinh viên năm hai có thể tùy chọn tùy chỉnh chương trình học của họ với các khóa học tại các trường khác của Stanford: môn tự chọn, hội thảo hoặc bằng cấp liên kết kép. Môn tự chọn bao gồm: Các khóa học kế toán, kinh doanh, tài chính, quản lý chung, kinh tế quản lý, tiếp thị, kinh tế chính trị và quản lý chiến lược. Sinh viên đăng ký vào Stanford có GMAT trung bình 732, một trong những trường yêu cầu GMAT cao nhất so với các trường kinh doanh khác (trung bình 613). Sau khi tốt nghiệp, có tới 82% sinh viên được tuyển dụng trong vòng 3 tháng và làm việc chủ yếu tại các ngành Tư vấn, phần mềm và tài chính. Mức lương trung bình khoảng 136.000 $. Các công ty tuyển dụng sinh viên từ Stanford bao gồm Adobe, Quỹ Agritech, Airbnb, AOL, Amazon, Apple, Quỹ bảo vệ môi trường và một số công ty khác.

    Viện Đại học Stanford (Mỹ)
    Viện Đại học Stanford (Mỹ)
    Viện Đại học Stanford (Mỹ)
    Viện Đại học Stanford (Mỹ)

  2. Viện Đại học Harvard là một viện đại học nghiên cứu tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy nằm ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch sử, tầm ảnh hưởng và tài sản của mình, Harvard là một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới. Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ. Mặc dù chưa bao giờ có mối quan hệ chính thức với bất kỳ giáo phái nào, Trường Đại học Harvard (Harvard College, sau này là trường giáo dục bậc đại học của Viện Đại học Harvard) trong thời kỳ đầu chủ yếu đào tạo các mục sư Kháng Cách thuộc hệ phái Tự trị Giáo đoàn. Chương trình học và thành phần sinh viên của trường dần dần trở nên có tính chất thế tục trong thế kỷ XVIII và đến thế kỷ XIX thì Harvard đã nổi lên như một cơ sở văn hóa chủ chốt của giới tinh hoa vùng Boston. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles W. Eliot trong nhiệm kỳ viện trưởng kéo dài nhiều năm của mình (từ 1869 đến 1909) đã chuyển đổi trường đại học này và các trường chuyên nghiệp liên kết với nó thành một viện đại học nghiên cứu hiện đại. Harvard là thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900. James Bryant Conant lãnh đạo viện đại học này trong suốt thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh bắt đầu cải cách chương trình học và mở rộng việc tuyển sinh. Trường Đại học Harvard trở thành cơ sở giáo dục dành cho cả nam lẫn nữ vào năm 1977 khi nó sáp nhập với Trường Đại học Radcliffe.

    Viện Đại học Harvard
    được tổ chức thành 11 đơn vị học thuật - 10 phân khoa đại học và Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe - Trong số các tổng thống Hoa Kỳ, có tám người là cựu sinh viên Harvard; chừng 150 người được trao giải Nobel là sinh viên, giảng viên, hay nhân viên của viện đại học này. Ngoài ra, có 62 tỉ phú hiện đang còn sống và 335 Học giả Rhodes, hầu hết sống ở Hoa Kỳ, là cựu sinh viên Harvard. Thư viện Viện Đại học Harvard cũng là thư viện đại học lớn nhất ở Hoa Kỳ. Tính đến tháng 6 năm 2013, tổng số tiền hiến tặng mà Harvard có được là 32,3 tỷ đô-la, lớn hơn ở bất cứ cơ sở học thuật nào trên thế giới. Trường cung cấp chương trình MBA với thời gian học 2 năm được thiết kế chuẩn cho sinh viên muốn trở thành lãnh đạo toàn cầu. Ngoài ra, trường còn cung cấp các lựa chọn mức độ kép thông qua các trường đại học Harvard khác, bao gồm: Harvard Kennedy, Luật Harvard, trường Y Harvard, trường Y nha khoa Harvard. Chương trình MBA của Harvard giúp sinh viên vượt các thách thức lãnh đạo thực tế thông qua sự tương tác với một cộng đồng đa dạng, được đắm mình trong những trải nghiệm thực tế. Chương trình MBA của HBS bap gồm các nền tảng phát triển lãnh đạo kinh nghiệm Immersion (FIELS) của một loạt các hội thảo được thiết kế nhằm giúp học sinh khám phá và thực hành các kỹ năng giao tiếp và lãnh đạo. Sau khi tốt nghiệp, có tới 91% học sinh được tuyển dụng trong vòng 3 tháng với mức lương trung bình là 177.511 $.

    Đại học Harvard (Mỹ)
    Đại học Harvard (Mỹ)
    Đại học Harvard (Mỹ)
    Đại học Harvard (Mỹ)
  3. Viện Đại học Pennsylvania hay Đại học Pennsylvania là một viện đại học tư thục phi lợi nhuận nằm trong Liên đoàn Ivy tọa lạc tại trung tâm thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Được tuyên bố ngày thành lập năm 1740, đây là một trong 9 trường Đại học lâu đời nhất nước Mỹ được thành lập khi còn là thuộc địa Anh Quốc (trước Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ). Trường có thế mạnh về các ngành khoa học cơ bản, nhân học, luật học, y dược, giáo dục học, kỹ thuật và kinh doanh theo một chuơng trình giáo dục khai phóng hiện đại được ủng hộ bởi Benjamin Franklin, người sáng lập và là Hiệu trưởng đầu tiên của Penn. Penn có bốn trường cử nhân cũng như mười hai trường sau đại học và chuyên nghiệp. Đại học này cũng sở hữu trường y khoa đầu tiên ở Bắc Mỹ là Trường Y học Perelman mở cửa vào năm 1765, trường kinh doanh đại học đầu tiên trên thế giới là Trường Kinh doanh Wharton khai giảng vào năm 1881, và là nơi có "hội sinh viên" đầu tiên được tổ chức trên thế giới vào năm 1896. Năm 2019, trường Đại học này có khoản tài trợ 14,7 tỷ đô la (lớn thứ bảy trong tất cả các trường Đại học ở Hoa Kỳ) và sở hữu ngân sách nghiên cứu là 1,02 tỷ đô la. Chương trình điền kinh của trường đại học mang tên Quakers bao gồm 33 môn thể thao thi đấu trong NCAA Division I của Liên đoàn Ivy.


    Tính đến năm 2020, các cựu sinh viên xuất sắc bao gồm 14 nguyên thủ quốc gia, 64 tỷ phú, 3 thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, 33 Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, 44 Thống đốc Hoa Kỳ, 159 thành viên Hạ viện Hoa Kỳ, 8 người ký Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, 12 người ký Hiến pháp Hoa Kỳ, 24 thành viên của Quốc hội Lục địa Mỹ, 2 Tổng thống Hoa Kỳ bao gồm Tổng thống đương nhiệm Donald Trump. Tính đến tháng 10 năm 2020, 36 người đoạt giải Nobel, 169 Nghiên cứu sinh Guggenheim, 80 thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ và nhiều CEO của các tập đoàn trong danh sách Fortune 500 từng là giảng viên hoặc cựu sinh viên của trường đại học này. Các cựu sinh viên đáng chú ý khác bao gồm 29 học giả Rhodes, 15 học giả Marshall, 16 người đoạt giải Pulitzer và 48 học giả Fulbright. Penn có số lượng tỷ phú cựu sinh viên đại học cao nhất của bất kỳ trường học nào ở Mỹ. Penn có thế mạnh về việc học tập và nghiên cứu liên ngành. Trường cung cấp các chương trình bằng kép, chuyên ngành độc đáo và linh hoạt trong học thuật. Chính sách "Một trường đại học" của Đại học này cho phép sinh viên đại học có thể tham gia các lớp học tại tất cả các trường đại học và sau đại học của Penn ngoại trừ các trường y tế, thú y và nha khoa. Các sinh viên tại Penn cũng có thể tham gia các khóa học tại Bryn Mawr, Haverford và Swarthmore theo một thỏa thuận đối ứng được gọi là Hiệp hội Quaker.

    Đại học Pennsylvania (Mỹ)
    Đại học Pennsylvania (Mỹ)
    Đại học Pennsylvania (Mỹ)
    Đại học Pennsylvania (Mỹ)
  4. Trường Kinh doanh Luân Đôn - London Business School (LBS) được thành lập vào năm 1964 và trực thuộc Đại học Luân Đôn. Trường nằm trong Công viên Regents, Luân Đôn. Trường có khoảng trên 1.400 sinh viên tốt ghiệp hàng năm. Ngoài ra, các nhà quản lý cũng theo học chương trình MBA quản lý hàng năm. LBS cũng cung cấp chương trình học bổng Sloan dành cho các quản lý kinh doanh cấp bậc cao nhiều kinh nghiệm, Thạc sĩ Tài chính (còn được gọi là MiF, một chương trình chuyên ngành tài chính), Thạc sĩ Quản lý dành cho sinh viên với ít hơn 1 năm kinh nghiệm đi làm, và PhD, cũng như các chương trình dành cho các giám đốc điều hành doanh nghiệp. Trường nổi tiếng với chương trình MBA được thiết kế phù hợp với yêu cầu của từng cá nhân. Sinh viên có thể lựa chọn khóa học 15, 18 hay 21 tháng. Không chỉ liên kết với doanh nghiệp ở London, trường còn có mạng lưới kết nối toàn cầu nhờ hơn 36.000 cựu sinh viên đến từ 130 quốc gia. Mỗi năm có hơn 2,000 sinh viên tới từ 130 quốc gia khác nhau ra trường. Hơn 3,000 các giám đốc theo học chương trình đào tạo giám đốc mỗi năm.


    Trường vẫn luôn duy trì các trang thiết bị, bao gồm 1 trung tâm thể thao, 1 nhà hàng, 2 quán cafe và 1 thư viện được dành riêng cho sinh viên. Một quán Pub tư nhân cũng gắn liền với campus. Không có dịch vụ nhà ở trên campus dành cho sinh viên theo học các chương trình toàn thời gian, mặc dù có các phòng trên campus dành cho các giảng viên và nhân viên điều hành giáo dục tới thăm. Hầu hết sinh viên chọn sống tại các tòa nhà tư nhân ở gần hoặc trong các ký túc xá sinh viên như Nhà Sinh Viên Quốc Tế London. London Business School là một trong những trường đào tạo MBA tốt nhất tại Vương Quốc Anh và đứng trong Top 50 toàn cầu. Thông tin được công bố từ website so sánh mức lương thưởng từ Emolument, chỉ trong vòng chưa tới 3 năm sau khi tốt nghiệp, sinh viên MBA có thể kỳ vọng vào mức lương $154,000 tại London Business School. London là một trong những trọng điểm tài chính trên thế giới, và sinh viên sẽ có thể tiếp cận với những công ty hàng đầu thế giới về trải nghiệm việc làm và công việc. Xây dựng mạng lưới cũng là một yếu tố lớn trong thời gian học MBA và ở London, bạn sẽ gặp gỡ được rất nhiều con người tới từ mọi nơi. 93% sinh viên theo học MBA tại London Business School là sinh viên quốc tế. Tỉ lệ đó là 81% tại Cass và 88% tại Imperial College London. Bạn sẽ có được nhiều bạn bè mới và cảm thấy tự nhiên như ở nhà khi ở quanh những sinh viên giống mình.

    Trường Kinh doanh London (Anh)
    Trường Kinh doanh London (Anh)
    Trường Kinh doanh London (Anh)
    Trường Kinh doanh London (Anh)
  5. Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở thành phố Cambridge, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. MIT nổi tiếng nhờ hoạt động nghiên cứu và giáo dục trong các ngành khoa học vật lý, kỹ thuật, cũng như trong các ngành sinh học, kinh tế học, ngôn ngữ học và quản lý. MIT được thành lập vào năm 1861 nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa của Hoa Kỳ, dựa trên mô hình viện đại học bách khoa (polytechnic university) và nhấn mạnh đến việc giảng dạy trong phòng thí nghiệm. MIT ban đầu nhấn mạnh đến các ngành công nghệ ứng dụng ở bậc đại học và sau đại học và chính điều này giúp thiết lập sự hợp tác gần gũi với các công ty công nghiệp. Những cải cách chương trình học dưới thời các Viện trưởng Karl Compton và Vannevar Bush trong thập niên 1930 nhấn mạnh các ngành khoa học cơ bản. MIT gia nhập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1934. Các nhà nghiên cứu ở MIT nghiên cứu và thiết kế máy tính, radar và hệ thống định vị trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai và thời Chiến tranh lạnh. Hoạt động nghiên cứu quốc phòng thời hậu chiến đã đóng góp vào sự gia tăng nhanh chóng số lượng giảng viên và sự phát triển của khuôn viên viện đại học dưới thời Viện trưởng James Killian. Khuôn viên hiện tại rộng 168 mẫu Anh (68,0 ha) mở cửa vào năm 1916 và mở rộng hơn 1 dặm (1,6 km) dòng theo bờ bắc con sông Charles.


    Ngày nay MIT bao gồm nhiều khoa học thuật khác nhau, nhấn mạnh đến nghiên cứu và giáo dục trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, quản lý và khoa học xã hội. MIT có năm trường (Trường Khoa học, Trường Kỹ thuật, Trường Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Quản lý, và Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội) và một trường đại học (Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Y tế), bao gồm tổng cộng 32 khoa. Viện đại học này có 93 người được giải Nobel, 25 người nhận giải thưởng Turing, 58 người nhận Huân chương Khoa học Quốc gia (National Medal of Science), 29 người nhận Huân chương Công nghệ và Sáng tạo Quốc gia (National Medal of Technology and Innovation) 45 Học giả Rhodes (Rhodes Scholars), và 50 Học giả MacArthur (MacArthur Fellows). MIT và cựu sinh viên đóng vai trò lớn trong nhiều phát kiến khoa học công nghệ hiện đại. Viện MIT cũng là một đối tác nghiên cứu quốc phòng quan trọng của chính phủ Mĩ, đặc biệt trong các dự án về hạt nhân, khoa học không gian, khoa học máy tính và công nghệ nano. 41 cựu sinh viên MIT đã trở thành phi hành gia của Hoa Kì và các nước khác. Trong số 12 người đã từng đặt chân lên Mặt Trăng, 4 trong số đó có bằng cấp từ MIT. MIT là một trong những cơ sở giáo dục bậc cao có tiêu chuẩn tuyển chọn sinh viên khắt khe nhất; chẳng hạn, khóa sẽ tốt nghiệp vào năm 2016 có 1.620 sinh viên được tuyển chọn từ 18.109 thí sinh, như vậy tỷ lệ được nhận vào chỉ 8.95%.

    Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)
    Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)
    Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)
    Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)
  6. INSEAD là một trường đại học tư thục, phi lợi nhuận, với các cơ sở giảng dạy chính ở Fontainebleau, Pháp và Singapore, cùng với các cơ sở nghiên cứu ở Abu Dhabi, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất và San Francisco, Hoa Kỳ. Là một trường kinh doanh bậc sau đại học, INSEAD cung cấp chương trình Thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) toàn thời gian, Thạc sĩ điều hành cao cấp (EMBA), Thạc sĩ tài chính, chương trình Tiến sĩ quản lý, Thạc sĩ quản lý và nhiều chương trình đào tạo lãnh đạo doanh nghiệp (executive education). Chương trình MBA của INSEAD là một trong những chương trình danh giá nhất toàn cầu. Chương trình MBA của INSEAD xếp thứ 2 về số lượng cựu sinh viên hiện là tổng giám đốc tại 500 công ty lớn nhất toàn cầu, chỉ sau Trường Kinh doanh Harvard, và xếp thứ 6 về số lượng tỷ phú. INSEAD nằm trong top 20 trường đại học đào tạo ra nhiều triệu phú nhất toàn cầu, và là trường duy nhất trong số này chỉ đào tạo 1 lĩnh vực và chỉ đào tạo bậc cao học. INSEAD cũng đào tạo ra 10 tỷ phú đô la và 3 nguyên thủ quốc gia. Cựu sinh viên INSEAD bao gồm các CEO/Chủ tịch của Credit Suisse, Ericsson, WPP, Lloyds Banking Group, LEGO, Philip Morris International, Y Combinator và các nhà sáng lập của các công ty L'Occitane, Octapharma, TransferWise, Business Insider, MongoDB, BlaBlaCar, PropertyGuru, NuBank

    INSEAD
    được sáng lập tại Pháp năm 1957 bởi Georges Doriot, một nhà giáo dục người Mỹ gốc Pháp và được biết đến là "cha đẻ của chủ nghĩa đầu tư mạo hiểm" và hai sinh viên của ông là Claude Janssen và Olivier Giscard d'Estaing. Năm 2000, Trường mở thêm cơ sở giảng dạy tại Singapore. Năm 2012, INSEAD trở thành một thành viên sáng lập của Liên minh Đại học Sorbonne, tiến tới hợp nhất để tạo một trường đại học đa ngành trong top đầu. INSEAD được biết đến với tính quốc tế cao, không nhận quá 10% sinh viên có cùng 1 quốc tịch và yêu cầu mỗi sinh viên phải nói được 3 thứ tiếng để tốt nghiệp. INSEAD từ lâu đã được công nhận là một trong những trường kinh doanh tiên tiến và có tầm ảnh hưởng nhất thế giới. Nằm tại Fontainebleau (Pháp ), hiện tại INSEAD có khoảng 145 khoa với gần 1000 học viên MBA, 9.000 cán bộ điều hành và 60 nghiên cứu sinh tiến sỹ từ hơn 80 quốc gia. Trên toàn thế giới số cựu sinh viên của trường khoảng 38.000 ở khắp 150 quốc gia.Với sứ mệnh là trường kinh doanh của thế giới, Đại học Insead có con số cựu sinh viên và nghiên cứu sinh là 51511, đến từ 174 quốc gia, thuộc 154 quốc tịch, hoạt động trong 47 tổ chức.

    INSEAD (Pháp)
    INSEAD (Pháp)
    INSEAD (Pháp)
    INSEAD (Pháp)
  7. Trường Thương mại Paris (HEC) là một trong những trường kinh doanh danh tiếng nhất nhì thế giới. HEC Paris được xem như grande école danh giá nhất ở Pháp. Trường được tạp chí tài chính Financial Times xếp hạng là trường quản lý thương mại số 1 châu Âu liên tiếp nhiều năm liền. Năm 2017, HEC Paris đứng thứ 12 toàn thế giới trong Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds về ngành quản lý và thương mại. Chính vì vậy, kỳ thi tuyển chọn vào trường luôn được đánh giá là một trong những kỳ thi khắc nghiệt và gắt gao nhất trong các trường đại học ở Châu Âu với tỷ lệ chấp nhận vào học khoảng 8% trong tổng số thí sinh ứng tuyển. Thành lập vào năm 1881, trường được quản lý và tài trợ bởi Sở Công Thương Paris (CCIP). Trường HEC Paris từng đào tạo rất nhiều chính khách, nhà kinh tế, nhà quản lý nổi tiếng cho nước Pháp và cho thế giới. 12 trên 40 tập đoàn lớn nhất của Pháp có tổng giám đốc là cựu sinh viên HEC. HEC là trường đại học hàng đầu châu Âu đào tạo ra nhiều tổng giám đốc nhất cho các tập đoàn hàng đầu thế giới trong bảng Fortune Global 500 (xếp thứ 3 nếu tính trên toàn thế giới, sau đại học Harvard và Stanford của Mỹ). Đương kim tổng thống Pháp François Hollande là cựu sinh viên của HEC. Các chương trình của trường được công nhận cùng lúc bởi các tổ chức chứng nhận quốc tế: AMBA, EQUIS và AACSB.


    Trường thương mại cao cấp Paris (HEC) là một trong những trường kinh doanh danh tiếng nhất thế giới. Trường được tạp chí tài chính Financial Times xếp hạng là trường quản lý thương mại số 1 châu Âu liên tiếp nhiều năm liền. Năm 2017, HEC Paris đứng thứ 12 toàn thế giới trong Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds về ngành quản lý và thương mại. Chính vì vậy, kỳ thi tuyển chọn vào trường luôn được đánh giá là một trong những kỳ thi khắc nghiệt và gắt gao nhất trong các trường đại học ở Châu Âu với tỷ lệ chấp nhận vào học khoảng 8% trong tổng số thí sinh ứng tuyển. Thành lập vào năm 1881, trường được quản lý và tài trợ bởi Sở Công Thương Paris (CCIP). Trường tọa lạc tại Jouy-en-Josas từ năm 1964, ở ngoại ô thủ đô Paris, khá gần với khuôn viên của trường Bách khoa Paris. Trường HEC Paris từng đào tạo rất nhiều chính khách, nhà kinh tế, nhà quản lý nổi tiếng cho nước Pháp và cho thế giới. 12 trên 40 tập đoàn lớn nhất của Pháp có tổng giám đốc là cựu sinh viên HEC. HEC là trường đại học hàng đầu châu Âu đào tạo ra nhiều tổng giám đốc nhất cho các tập đoàn hàng đầu thế giới trong bảng Fortune Global 500 (xếp thứ 3 nếu tính trên toàn thế giới, sau đại học Harvard và Stanford của Mỹ). Đương kim tổng thống Pháp François Hollande là cựu sinh viên của HEC. Các chương trình của trường được công nhận cùng lúc bởi các tổ chức chứng nhận quốc tế: AMBA, EQUIS và AACSB.

    HEC Paris (Pháp)
    HEC Paris (Pháp)
    HEC Paris (Pháp)
    HEC Paris (Pháp)
  8. Tây Ban Nha không chỉ thu hút sinh viên quốc tế bởi các trường công lập nổi tiếng mà còn làm cho du học sinh thích thú bởi hệ thống trường tư thục chất lượng cao, một trong số đó là trường Đại học IE. IE Uinersity có 2 khuôn viên tại Madird và thành phố Segovia. Đây là 2 khu vực du lịch sôi động thu hút lượng khách đông đảo, giao thông thuận tiện và dịch vụ hỗ trợ đẳng cấp. IE University (IEU) là trường đại học tư thục uy tín trực thuôc Instituto de Empresa được thành lập vào năm 1997. Đây là một trong những trường kinh doanh tốt nhất tại Tây Ban Nha. Khuôn viên trường được đặt tại 2 địa điểm: trụ sở chính tại thành phố Segovia thuộc khu vực Castilla y León và cơ sở còn lại nằm ở Madrid. Chương trình MBA của trường IE tập trung vào những kỹ năng phổ quát quan trọng như tư duy phê phán, truyền thông và hợp tác. Chương trình khuyến khích sinh viên phát triển tư duy kinh doanh để có khả năng cạnh tranh ở bất kỳ ngành công nghiệp nào.


    Trường Kinh doanh IE, Tây Ban Nha là cơ sở đào tạo uy tín với thế mạnh trong lĩnh vực kinh doanh tại Tây Ban Nha. Với hơn 30 năm đào tạo hệ đại học và thạc sỹ, ESERP hiện có 03 cơ sở đào tạo tại Madrid, Barcelona, Palma de Mallorca. Ngoài ra, trường còn hợp tác với các trường ĐH tại UK, Hà Lan để cấp bằng liên kết, sinh viên học xong một chương trình có thể được cấp 2 bằng của 2 đại học hàng đầu thế giới là của Tây Ban Nha và ĐH Staffordshire, Anh Quốc.Công nhận quốc tế: Sinh viên hoàn thành chương trình học tại ESERP sẽ nhận được sự công nhận học thuật tương ứng của các tổ chức đào tạo sau: European Communication School, Pháp- Bỉ, trường Đại học Staffordshire - Anh quốc, trường quản lý Maastricht - Hà Lan. Với hơn 30 năm kinh nghiệm giảng dạy trong lĩnh vực kinh doanh, ESERP tự hào nằm trong top 5 các trường kinh doanh hàng đầu về lĩnh vực này, là nơi tuyệt vời để sinh viên có thể lấy cả 2 bằng thạc sĩ và cử nhân chính thức. Trường có khóa học cử nhân liên kết với đại học Staffordshire ở Anh, do đó sinh viên có năng lực có thể được chuyển tiếp sang Anh để học tập, nghiên cứu. Chứng chỉ tại ESERP là chứng chỉ quốc tế được công nhận tại tất cả các nước trên thế giới.

    Trường Kinh doanh IE (Tây Ban Nha)
    Trường Kinh doanh IE (Tây Ban Nha)
    Trường Kinh doanh IE (Tây Ban Nha)
    Trường Kinh doanh IE (Tây Ban Nha)
  9. Viện Đại học Chicago còn gọi là Đại học Chicago, là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở Chicago, Illinois, Hoa Kỳ. Viện đại học này được Hội Giáo dục Baptist Hoa Kỳ thành lập vào năm 1890 với khoản tiền hiến tặng từ tỉ phú dầu lửa John D. Rockefeller. William Rainey Harper trở thành viện trưởng đầu tiên của viện đại học vào năm 1891; những lớp học đầu tiên khai giảng vào năm 1892. Viện Đại học Chicago bao gồm Trường Đại học (the College), nhiều chương trình sau đại học và ủy ban liên ngành khác nhau được tổ chức thành bốn phân khoa, sáu trường chuyên nghiệp và một trường giáo dục thường xuyên. Viện đại học có tổng cộng khoảng 15.000 sinh viên, trong đó chừng 5.000 sinh viên theo học ở Trường Đại học. Viện Đại học Chicago nhiều năm liền được xếp vào một trong 10 viện đại học hàng đầu thế giới và được xếp thứ năm cùng với Viện Đại học Stanford trong "Bảng xếp hạng những viện đại học tốt nhất nước" năm 2014 của U.S. News & World Report.


    Các học giả của Viện Đại học Chicago đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển những lĩnh vực học thuật khác nhau, trong đó có trường phái kinh tế học Chicago, trường phái xã hội học Chicago, phong trào luật và kinh tế học trong phân tích pháp lý, trường phái phê bình văn học Chicago, trường phái nghiên cứu tôn giáo Chicago, trường phái khoa học chính trị được biết đến với tên "thuyết hành vi" (behavioralism) và trong lĩnh vực vật lý nơi các nhà khoa học của viện đại học đã tạo ra phản ứng hạt nhân nhân tạo và tự duy trì đầu tiên của thế giới. Viện Đại học Chicago cũng là cơ sở giáo dục đại học có nhà xuất bản lớn nhất Hoa Kỳ, Nhà xuất bản Viện Đại học Chicago. Chương trình MBA của Booth (Đại học Chicago) tập trung đào tạo sinh viên bằng cách tiếp cận những vấn đề kinh doanh thực tiễn, theo đó sinh viên sẽ quan sát và tham gia vào những dự án khởi nghiệp “người thật việc thật”. Những chuyên gia từ các tập đoàn tư nhân và các công ty đầu tư mạo hiểm là diễn giả khách mời thường xuyên ở trường. Một số sinh viên còn được đi thực tập và tham gia dự báo xu thế thị trường ở những tập đoàn khổng lồ này.

    Đại học Chicago (Mỹ)
    Đại học Chicago (Mỹ)
    Đại học Chicago (Mỹ)
    Đại học Chicago (Mỹ)
  10. Viện Đại học Columbia còn gọi là Đại học Columbia, là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ. Một thành viên của Ivy League, Columbia là cơ sở giáo dục đại học lâu đời nhất tại tiểu bang New York, lâu đời thứ năm tại Hoa Kỳ, và là một trong chín đại học thuộc địa được thành lập trước Cách mạng Hoa Kỳ. Trường được thành lập vào năm 1754 với tên King's College dưới hiến chương hoàng gia của vua George đệ Nhị của Vương quốc Anh và là một trong ba trường đại học duy nhất tại Hoa Kỳ được thành lập dưới đặc quyền này. Columbia là trường đại học tốt thứ 3 nước Mỹ và thứ 6 thế giới, theo US News & World Report. Trường cũng là một trong những thành viên sáng lập của Hiệp hội Viện Đại học Mỹ. Columbia có số lượng sinh viên và giảng viên đạt giải Nobel nhiều hơn bất kỳ học viện nào khác trên thế giới. Columbia hàng năm điều hành giải thưởng văn học Mỹ Pulitzer. Quỹ tài trợ và tài chính dành cho nghiên cứu hàng năm của Columbia thuộc vào loại lớn nhất trong các viện đại học tại Hoa Kỳ.


    Cựu học sinh và các thành viên nổi bật có liên kết với Columbia bao gồm: năm nhà Khai Quốc Hoa Kỳ (Founding Fathers of the United States); bốn Tổng thống Hoa Kỳ; chín Thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ; 15 Nguyên thủ Quốc gia (ngoài Mỹ); 97 chủ nhân giải Nobel, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; 101 chủ nhân giải Pulitzer, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; 25 chủ nhân giải Oscar, với tổng số giải Oscar giành được là 30 giải, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; và hàng loạt chủ nhân của các giải thưởng danh giá trong nhiều lĩnh vực. Columbia hiện là nơi công tác và giảng dạy của chín chủ nhân giải Nobel, 30 chủ nhân giải MacArthur Genius, bốn chủ nhân của Huy chương Khoa học Quốc gia Mỹ, 143 thành viên của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Mỹ, 38 thành viên của Viện Y tế thuộc nhóm các Viện Hàn lâm Quốc gia Mỹ, 20 thành viên của Viện Hàn lâm Kỹ thuật Hoa Kỳ, và 43 thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ.

    Đại học Columbia (Mỹ)
    Đại học Columbia (Mỹ)
    Đại học Columbia (Mỹ)
    Đại học Columbia (Mỹ)




xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |