Top 9 Nữ tu sĩ nổi bật trong thế giới Công giáo
Nếu máu của các vị tử đạo là hạt giống của giáo hội, thì lời cầu nguyện của các nữ tu là ánh nắng mà giáo hội cần. Những người phụ nữ sau đây Toplist giới ... xem thêm...thiệu đến bạn, là các nữ tu sĩ nổi bật trong thế giới Công giáo. Tất cả đều sống một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa và có lòng nhiệt thành truyền giáo với đời sống cầu nguyện sâu sắc.
-
Thánh Genevieve, sinh ra tại Nanterre-Pháp vào năm 423. Là con gái duy nhất của một gia đình thuộc tầng lớp quý tộc Gallo-La Mã, cha mẹ bà là những địa chủ giàu có, sở hữu nhiều điền trang rộng lớn xung quanh Paris cùng Meaux. Khi họ qua đời, Genevieve được thừa kế toàn bộ tài sản và chuyển sang định cư ở Paris vào khoảng năm 440. Rất nhanh chóng, bà bắt đầu tham gia vào nhóm “các trinh nữ thánh hiến” - là những phụ nữ tận hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa trong tình trạng độc thân và sống khiết tịnh. Đất đai của gia đình mang lại cho bà nguồn thu nhập thoải mái, Genevieve đã sử dụng số tiền đó cho mục đích chính trị và phân phát từ thiện cho những người nghèo. Dù vậy, đối với bản thân, bà lại tự áp đặt một chế độ khổ hạnh cho mình.
Các dấu hiệu cho thấy Chúa Thánh Thần luôn đồng hành cùng người phụ nữ trẻ thánh thiện này, bao gồm các phép lạ cùng những lời tiên đoán được soi dẫn về mặt thiêng liêng. Genevieve thường xuyên nhìn thấy các thiên thần và các vị Thánh trên trời. Tuy nhiên, khi bà chia sẻ những khải tượng về Thiên Chúa, thì mọi người bắt đầu quay lưng lại với bà. Họ gọi Genevieve là kẻ đạo đức giả, buộc tội bà là người có tầm nhìn sai lầm; thậm chí họ còn muốn ném đá vào bà. Đức Giám mục Germanus đã can thiệp và đứng ra bảo vệ Genevieve về những cáo buộc cũng như sự bách hại bà.
Genevieve sau đó được bổ nhiệm để chăm sóc phúc lợi cho các “trinh nữ thánh hiến”. Bà đã làm điều đó một cách trung thành, giúp dẫn dắt họ đến mức độ thánh thiện hơn, để họ ngày càng gần gũi với Thiên Chúa.
Genevieve có ảnh hưởng lớn đến Childeric - vua xứ Gaul, người đã chiếm lấy Paris. Trong thời gian thành phố phải hứng chịu nạn đói lớn, bà đã đi thuyền đến Troyes và mang về một số thuyền chở đầy ngô. Mặc dù là người ngoại đạo, nhưng vua Childeric vẫn tôn trọng Genevieve, đồng thời thay mặt bà tha mạng cho một số tù nhân. Ngoài ra, bà còn có ảnh hưởng đến vua Clovis. Ông ấy lắng nghe lời khuyên của Genevieve, và theo yêu cầu của bà, ông cũng trả tự do cho một số tù nhân.
Năm 451, người dân Paris sợ hãi khi nghe tin rằng người Huns - những chiến binh đáng gờm do Attila lãnh đạo, đang tiến về thành phố. Khi những người theo đạo Cơ đốc đang chuẩn bị trốn chạy, họ quyết định rời khỏi nơi ở để đi tị nạn; Genevieve đã thuyết phục họ ở lại trong nhà, nhịn ăn và cầu nguyện với Chúa. Bà đảm bảo rằng mọi người sẽ có được sự bảo vệ từ thiên đường. Dự đoán ấy đã thành sự thật khi Attila đột nhiên thay đổi con đường, cuối cùng đã bỏ qua Paris để đi về phía Nam tới Orleans. Sự can thiệp của Genevieve được cho là đã cứu Paris khỏi trận dịch năm 1129.
Bà qua đời ở tuổi 89, vào ngày 3 tháng 1 năm 512. Được chôn cất trong một vương cung thánh đường xây dựng trên đỉnh núi có tên là Thánh Genevieve ngày nay.
Dù vậy, bất chấp tất cả những gì bà đã làm cho thành phố của mình, di tích của Genevieve vẫn bị đốt cháy và gần như bị phá hủy trong cuộc cách mạng Pháp.
-
Thánh Hildegard của Bingen là tiến sĩ giáo hội và là một nhà văn, nhà soạn nhạc, triết gia, nhà thần bí Kito giáo và nữ tu viện trưởng dòng Benedictines người Đức. Bà sinh vào khoảng năm 1098, là con út trong một gia đình quý tộc. Cha mẹ Hildegard đã cầu xin với Chúa về người con gái bị bệnh của mình. Họ gửi bà cho một nữ tu dòng Benedictines, là Chân Phước Jutta chăm sóc, tại Giáo phận Speyer lúc bà 8 tuổi. Hildegard được dạy cách đọc và hát các thánh vịnh bằng tiếng Latinh. Sự thánh thiện cùng đạo đức của bà khiến tất cả những ai từng gặp đều yêu mến. Người ta kể rằng, Hildegard đã bắt đầu trải nghiệm những linh ảnh thần bí ngay từ khi còn trẻ.
Năm 18 tuổi, bà trở thành nữ tu tại tu viện Thánh Disibodenberg. Sau khi Jutta qua đời năm 1136, Hildegard được bầu làm bề trên.
Lòng sùng kính mạnh mẽ của bà đối với Chúa Thánh Thần đã thu hút nhiều tập sinh đến tu viện. Hildegard đã cùng với 18 chị em tu sĩ khác thành lập một ngôi nhà Benedictines mới gần Bingen vào năm 1148, và sau đó thành lập một tu viện ở Eibingen năm 1165. Bà tin rằng đây là mệnh lệnh từ Thiên Chúa. Hildegard nhanh chóng được công nhận nhờ kiến thức sâu rộng về mọi thứ như: âm nhạc, khoa học tự nhiên, thảo dược và dược liệu; mặc dù bà chưa bao giờ được học hành chính quy.
Phần lớn những cái nhìn sâu sắc của Hildegard được cho là Thiên Chúa truyền đạt thông qua những khải tượng thường xuyên của bà. Những lời tường thuật sau đó đã được đệ trình lên giám mục - người đã thừa nhận chúng thực sự đến từ Chúa. Các khải tượng này sau đó còn được đưa đến Giáo hoàng Eugenius III. Danh tiếng của Hildegard bắt đầu lan rộng khắp Châu Âu. Mọi người khắp nơi bắt đầu đổ xô đến tìm kiếm sự giúp đỡ từ bà.
Trong phần còn lại của cuộc đời, Hildegard tiếp tục với công việc viết lách của mình; 26 khải tượng đã trải qua và ý nghĩa của chúng được bà ghi lại. Ngoài ra, bà cũng viết về nhiều chủ đề khác. Các tác phẩm đó bao gồm: những bài bình luận về Tin Mừng, kinh Tin Kính Athanasian, luật của Thánh Benedict, cuộc đời các vị Thánh và một tác phẩm y học về sức khỏe thể xác. Hildegard cũng trở thành nhân vật quan trọng trong lịch sử âm nhạc. Có nhiều tác phẩm thánh ca vẫn còn sót lại của bà, hơn bất kỳ nhà soạn nhạc thời trung cổ nào khác.
Năm cuối cùng trong cuộc đời của Thánh Hildegard thật khó khăn đối với bà và tu viện, vì đi ngược lại mong muốn của chính quyền giáo phận. Tu viện đã bị đặt dưới lệnh cấm khi bà cho phép việc chôn cất một chàng trai trẻ đã bị rút phép thông công (vạ tuyệt thông).
Hildegard nhấn mạnh rằng người đó đã được hòa giải với giáo hội cũng như đã lãnh nhận đủ các bí tích trước khi qua đời. Bà phản đối gay gắt khi giám mục địa phương cấm cử hành hoặc rước lễ tại tu viện Bingen. Tuy nhiên, một lệnh trừng phạt đã được gỡ bỏ chỉ vài tháng trước khi bà qua đời vào ngày 17 tháng 9 năm 1179. Hildegard được chôn cất tại nhà thờ Rupertsburg. Khi tu viện bị phá hủy vào năm 1632, thánh tích của nơi này được chuyển đến Cologne và sau đó đến Eibingen.
Nữ tu Hildegard đã trở thành một trong những người đầu tiên của tiến trình phong Thánh tại Roma được chính thức áp dụng. Nhưng phải mất khá nhiều thời gian trong giai đoạn đầu nên bà vẫn là Á Thánh. Cho đến ngày 10 tháng 5 năm 2012, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã phong Thánh cho Hildegard, và đặt nền tảng cho việc phong Thánh của bà là tiến sĩ giáo hội. Năm tháng sau, Thánh Hildegard của Bingen chính thức trở thành tiến sĩ hội thánh; là người phụ nữ thứ 4 trong số 35 vị Thánh được giáo hội Công giáo La Mã phong tặng danh hiệu này.
-
Thánh Bridget sinh ra trong một gia đình giàu có và sùng đạo ở Uppland, Thụy Điển vào năm 1303. Cha mẹ đã nuôi dạy bà trở thành một người ngoan đạo. Giống như Thánh Hildegard, Bridget cũng có những linh ảnh đầu tiên khi còn nhỏ. Bà đã mơ thấy hình ảnh Chúa Kito với những vết thương từ Thứ Sáu Tuần Thánh như được mô tả trong sách Tiên Tri.
Năm 1316, ở tuổi 13, Bridget kết hôn với Ulf Gudmarsson, 18 tuổi. Họ có với nhau 8 người con, trong đó có một cô con gái sau này trở thành Thánh Catherine của Thụy Điển.
Năm 1341–1343, Bridget và chồng mình đã hành hương đến Santiago di Compostela - quê hương của nhà thờ Tây Ban Nha, nơi chôn cất Thánh James. Trên đường trở về, Ulf bị ốm nặng, buộc họ phải dừng chân tại Pháp. Khi Bridget cầu nguyện cho chồng bên giường bệnh, một vị giám mục đã an ủi bà rằng Ulf sẽ hồi phục sức khỏe và “Chúa sẽ có những điều tuyệt vời dành cho bà”. Sau khi cả hai trở về Thụy Điển, thì không lâu sau đó vào năm 1344, chồng của bà qua đời. Sau sự mất mát đó, Bridget đã hiến tặng tất cả tài sản và dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Kito bằng việc tu trì.
Năm 1346, bà thành lập Bridgettines, còn được gọi là dòng Chúa Cứu Thế. Với sự giúp đỡ của vua Magnus Thụy Điển, tu viện Vadstena trở thành trụ sở của dòng Bridgettines. Đây là tu viện đầu tiên dành cho cả nữ và nam tu sĩ. Họ cư trú ở những khu vực riêng biệt nhưng sử dụng cùng một nhà nguyện.
Tuy nhiên, thật không may khi Thánh Bridget không thể chứng kiến sự hoàn thiện của tu viện Vadstena. Năm 1349, bà đến Roma và ở lại cho đến khi giáo hoàng từ Avignon-Pháp trở về đây. Giữa năm 1309-1376, bảy vị giáo hoàng liên tiếp trong triều đại đã sống tại Avignon thay vì Rome, do các xung đột xảy ra. Vì vậy, Bridget đã không thành công trong việc thuyết phục giáo hoàng quay trở lại.
Bà qua đời tại Rome năm 1373. Và chỉ 18 năm sau đó, Bridget được Giáo hoàng Boniface IX phong Thánh. Năm 1346, con gái của bà là Catherine, cũng đến Vadstena - nơi Bridget từng được phong làm viện trưởng. Sau sự qua đời của Catherine vào năm 1381, tu viện được giám mục Linkoping ban phước vào năm 1384. Bridgettines (dòng Chúa Cứu Thế) vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay với các tu viện trên khắp Châu Âu. Và hiện tại có 8 nữ tu sống ở Vadstena.
-
Thánh Teresa của Avila, sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515. Bà là một nữ tu dòng Carmelite và nhà cải cách tôn giáo, nhà thần bí nổi tiếng người Tây Ban Nha.
Không giống như những chị em tu sĩ khác, Teresa không phải là người nhiệt thành từ khi còn nhỏ. Bà gia nhập dòng Carmelites ở tuổi 20, nhưng lại chọn một tu viện có cách tiếp cận lỏng lẻo và đời sống xã hội trần tục.
Năm 1555, Teresa được cải đạo trong khi cầu nguyện trước tượng Chúa Kito bị đánh đòn. Ngài bắt đầu ban cho bà những khải tượng cũng như sự giao tiếp với Ngài. Teresa đã có một khoảng thời gian đau khổ khi cố gắng thích nghi với chủ nghĩa thần bí bất ngờ của mình. Nhưng may mắn thay, Thánh Peter Alcántara và Thánh Francis Borgia đã hướng dẫn bà.
Teresa bắt đầu cải cách dòng Carmelites vào năm 1558. Bà trở thành nhân vật trung tâm của phong trào đổi mới tinh thần và tu viện. Dù ngay lập tức có sự phản đối, nhưng giáo hoàng Pius IV đã cho phép bà mở một tu viện Carmelite cải cách dành riêng cho việc cầu nguyện, sám hối và làm việc. Thánh Teresa của Avila đã tiếp tục thành lập thêm 16 tu viện. Sau khi gặp người bạn cùng dòng là Thánh John Thánh Giá, bà đã giúp ông thành lập một tu viện cải cách dành cho nam giới.
Một sắc lệnh chính thức của giáo hoàng thông qua việc tách khỏi trật tự cũ được ban hành vào năm 1580. Cuốn tự truyện của Thánh Teresa được bà viết ra để bảo vệ những trải nghiệm huyền bí của mình.
Bốn mươi năm sau khi qua đời, vào năm 1622, Teresa được giáo hoàng Gregory XV phong Thánh. Và vào ngày 27 tháng 9 năm 1970, Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố bà là nữ tiến sĩ đầu tiên của giáo hội để công nhận di sản tinh thần kéo dài hàng thế kỷ của bà đối với Công giáo.
-
Thánh Teresa của Lisieux, sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873 tại Pháp, còn được gọi là Thánh Teresa Hài Đồng Jesus. Bà là một tu sĩ Carmelite đi chân đất người Pháp, được tôn kính rộng rãi cho đến thời hiện đại. Nhiều thế hệ người Công giáo đã ngưỡng mộ vị Thánh trẻ tuổi này, họ gọi Teresa là “Bông hoa nhỏ” và nhận thấy cuộc đời ngắn ngủi của bà có nhiều nguồn cảm hứng cho cuộc sống của họ hơn là những cuốn sách của các nhà thần học.
Là con gái cưng của một đôi vợ chồng ngoan đạo, cả cha và mẹ bà đều muốn đi tu. Tuy đã kết hôn nhưng họ lại quyết tâm sẽ sống độc thân, cho đến khi một linh mục nói rằng đó không phải là cách Thiên Chúa muốn ở một cuộc hôn nhân. Vì vậy, họ đã thay đổi suy nghĩ và làm theo lời khuyên của vị linh mục ấy, cuối cùng có 9 người con.
Bi kịch cùng mất mát đến với Terese quá sớm, khi bà chỉ mới 4 tuổi rưỡi, người mẹ qua đời vì bệnh ung thư. Chị gái Pauline của bà khi ấy 16 tuổi đã bất đắc dĩ phải trở thành người mẹ thứ hai của các em. Tuy nhiên, tồi tệ hơn khi Pauline trở thành nữ tu dòng Carmelites 5 năm sau đó. Vài tháng sau, Terese bị sốt nặng đến mức mọi người tưởng chừng bà không thể qua khỏi. Khi Teresa nhìn thấy các chị em ngồi xung quanh giường bệnh của mình cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ trong phòng, bà cũng cầu nguyện theo. Đột nhiên, Teresa nhìn thấy Mẹ Maria mỉm cười với bà, và bà được khỏi bệnh.
Đến năm 11 tuổi, Teresa đã phát triển thói quen cầu nguyện trong tâm trí. Bà thường tìm kiếm một chỗ thinh lặng để suy nghĩ về Thiên Chúa, nước trời, cuộc sống cùng sự vĩnh cửu.
Một ngày nọ, các chị gái khác là Marie và Leonie, rời đi để gia nhập dòng tu; Teresa phải ở lại một mình với người chị cuối cùng là Celine, cùng cha của bà. Vì vậy, Teresa cũng mong muốn vào tu viện Carmelite để tham gia cùng với hai người chị Pauline và Marie. Khi bề trên từ chối nhận bà vì còn quá trẻ, Teresa bé nhỏ nhút nhát trước đây đã đến gặp giám mục. Tuy nhiên, vị giám mục cũng không đồng ý. Khi cha và chị gái đưa bà đi hành hương đến Rome, họ đến diện kiến giáo hoàng, và Teresa đến cầu xin ngài cho mình được tham gia vào tu viện Carmelites. Vị tổng đại diện chứng kiến sự dũng cảm này đã rất ấn tượng; và chẳng bao lâu sau, Teresa đã được trở thành nữ tu như mong muốn.
Khi Pauline được bầu làm bề trên, bà đã yêu cầu em gái Teresa hãy tiếp tục là một tập sinh. Vì nhiều nữ tu đang lo sợ rằng gia đình bà sẽ tiếp quản tu viện. Nhưng điều này có nghĩa rằng Teresa sẽ không bao giờ chính thức trở thành một nữ tu thật sự. Sau sự qua đời của cha bà, người chị cuối cùng là Celine cũng tham gia vào tu viện, 4 chị em gái lúc này được ở bên nhau.
Vào năm 1896, Teresa ho ra máu. Tuy nhiên, bà tiếp tục làm việc mà không nói với ai cho đến khi bệnh nặng hơn và mọi người đều biết điều đó. Thánh Teresa của Lisieux qua đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, ở tuổi 24, sau khi sống ở dòng Carmelites chưa đầy 10 năm.
Bà chưa bao giờ đi truyền giáo, chưa bao giờ thành lập dòng tu, chưa bao giờ thực hiện những công việc vĩ đại. Nhưng quyển sách duy nhất của Teresa được xuất bản sau khi bà qua đời đã trở nên nổi tiếng. Đây là một phiên bản biên tập ngắn gọn từ nhật ký của chính bà, mang tên "Câu chuyện về một tâm hồn". Trong vòng 28 năm sau khi qua đời, nhu cầu của công chúng quá lớn, khiến Teresa được phong Thánh. Bà cũng trở thành một trong những vị Thánh bảo trợ cho các công cuộc truyền giáo, không phải vì từng đi đâu đó, mà vì tình yêu đặc biệt của bà đối với công cuộc truyền giáo, cũng như những lời cầu nguyện và những lá thư bà gửi để ủng hộ các nhà truyền giáo.
-
Thánh Mary Helen MacKillop, hay còn có tên gọi khác là Mary Thánh Giá, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1842 tại Melbourne. Bà là một nữ tu người Úc gốc Scotland, nhưng được biết đến nhiều nhất nhờ các hoạt động ở Nam Úc.
Là chị cả trong gia đình có 8 người con. Cha bà từng là thầy tu, ông rời chủng viện trước khi được thụ phong linh mục, nên luôn mong muốn rằng tất cả các con của mình đều được giáo dục tốt về đức tin.Mary bắt đầu làm việc ở tuổi 14, chủ yếu trong lĩnh vực giáo dục. Bà đã gặp Julian Tenison-Woods - một tu sĩ và là nhà địa chất học, khi dạy học cho trẻ em nghèo. Cả hai đã thành lập nên dòng “Nữ Tu Chúa Jesus Thánh Tâm”. Đây là một hội dòng gồm các nữ tu, họ đã thành lập các trường học cùng cơ sở phúc lợi trên khắp nước Úc và New Zealand, tập trung vào giáo dục cho người dân.
Trường Sisters of St.Joseph (Chị Em Của Thánh Jodept) là ngôi trường đầu tiên với sứ mệnh cung cấp nền giáo dục Công giáo cho trẻ em nghèo cùng người túng thiếu, cũng như mở rộng một tổ chức từ thiện toàn diện cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Dòng tu này không giống bất kỳ một dòng nào khác, và là dòng tu đầu tiên được thành lập bởi Úc. Nó không bị ràng buộc bởi những quy định nghiêm ngặt thông thường của tu viện vốn là thông lệ, và được các nhà lãnh đạo giáo hội thông qua. Thay vì sẽ có một giám mục của giáo phận địa phương có quyền kiểm soát công việc của họ, nhưng Mary cùng các nữ tu đã nhận được sự chấp thuận của giáo hoàng để tự do di chuyển từ giáo phận này sang giáo phận khác.
Trong bốn năm tiếp theo, bà cùng những nữ tu của mình đã thành lập thêm 35 trường học trong bang cũng như các trại trẻ mồ côi, nơi dành cho người vô gia cư, và người bị lạm dụng. Tuy nhiên, đáng ra nên được được khen ngợi về công việc có ích cho xã hội này, thì các giám mục và các nhà lãnh đạo giáo hội lại khó chịu trước sự độc lập của Mary; vì dòng tu của bà không nằm dưới sự kiểm soát của họ. Cực kỳ bảo thủ, họ phản đối lời thề nghèo đói của dòng cùng thực hành xin tài trợ cho trường học, nhà tình thương và trại trẻ mồ côi. Giám mục Sheil của Adelaide đã dứt phép thông công của Mary để buộc bà phải tuân theo. Bên cạnh đó, ông cũng cố gắng giành quyền kiểm soát. Khi Mary không đồng ý, Sheil đã bị vạ tuyệt thông, bị đuổi ra khỏi nhà thờ vì bị cáo buộc không phục tùng. Sau đó, giám mục Sheil đã cố gắng để giải tán dòng tu.
Đau khổ ở tuổi 29, Mary đã cầu nguyện với Chúa, bà tin rằng niềm tin của mình vào Ngài sẽ giải quyết được biến cố khủng khiếp này. Và thật vậy, trong vòng 5 tháng, giám mục Sheil đã nhận ra lỗi lầm của mình. Ông rút lại tuyên bố, đồng nghĩa với tư cách thành viên giáo hội của Mary khôi phục trở lại.
Vào năm 1873, bà đã đến Rome để đích thân xin giáo hoàng Pius IX sự chấp thuận. Ngài rất ấn tượng với trí thông minh cùng sự quyết tâm của Mary, nên công việc của dòng được mở rộng, họ thành lập các trường học trên khắp xứ Wales và New Zealand.
Tràn đầy tình cảm, tình yêu trẻ thơ sâu sắc, Thánh Mary Helen MacKillop tỏa ra sự ấm áp cùng nghị lực vô biên. Bà trở thành nguồn cảm hứng cho hầu hết mọi người từng gặp bà bằng lòng đạo đức, sự khiêm tốn. Năm 1901, ở tuổi 59, Mary bị đột quỵ khi đến thăm thành phố Rotorua ở New Zealand. Mặc dù bà vẫn giữ được sự nhạy bén về tinh thần và sức sống, nhưng đã trở thành một người tàn tật. Trở về Úc, bà dành những năm còn lại của cuộc đời tại Sydney.
Thánh Mary Helen MacKillop - Mẹ Mary Thánh Giá, qua đời vào ngày 8 tháng 8 năm 1909. Tang lễ của bà được tổ chức tại nhà thờ Công giáo Thánh Mary trên phố Miller, có rất đông giáo dân tham dự. Bốn năm sau, vào năm 1913, nhà nguyện tưởng niệm bà được xây dựng và hiện là nơi lưu giữ lăng mộ của chính bà. Cũng tại nơi đây, giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố phong Chân Phước cho Mary Helen MacKillop vào năm 1995. Và vào ngày 17 tháng 10 năm 2010, trong một buổi lễ công khai tại quảng trường Thánh Peter tại Vatican, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã phong Thánh cho bà.
-
Thánh Frances Xavier Cabrini, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1850, còn được gọi là Mẹ Cabrini. Bà là một nữ tu Công giáo người Mỹ gốc Ý, người thành lập nên dòng nữ tu truyền giáo Thánh Tâm Chúa Jesus - một viện tôn giáo hỗ trợ chính cho những người đồng hương Ý nhập cư đến Hoa Kỳ của bà.
Cabrini là con út trong gia đình có 13 người con. Thật không may, trong số đó chỉ có 3 anh chị em là sống sót qua tuổi thiếu niên, và Cabrini phải sống phần lớn cuộc đời trong tình trạng sức khỏe mong manh. Bà tận tâm cống hiến cho công việc tôn giáo từ khi còn trẻ và nhận được nền giáo dục tu viện. Cabrini tốt nghiệp loại xuất sắc, có chứng chỉ giảng dạy.
Năm 18 tuổi, bà nộp đơn xin gia nhập dòng Nữ Tử Thánh Tâm, nhưng bị từ chối vì sức khỏe yếu. Thay vào đó, một linh mục đã yêu cầu Cabrini giảng dạy tại trại trẻ mồ côi House of Providence ở Cadagono-Ý. Bà thực hiện công việc của mình tại trường nữ sinh trong 6 năm, thu hút một cộng đồng phụ nữ đến sống theo lối sống tôn giáo. Năm 1877, bà trở thành Mẹ Cabrini sau khi tuyên khấn và thêm Xavier vào tên của mình để vinh danh Thánh Francis Xavier. Khi trại trẻ mồ côi House of Providence đóng cửa, giám mục đã yêu cầu bà cùng với 6 nữ tu khác thành lập dòng Nữ Tu Truyền Giáo Thánh Tâm để chăm sóc trẻ em nghèo ở cả trường học và bệnh viện.
Trong 5 năm đầu tiên, bảy ngôi nhà, một trường học cùng nhà trẻ miễn phí được thành lập nên. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1889, Cabrini đến Thành phố New York với các chị em khác, sẵn sàng bắt đầu cuộc hành trình mới. Họ thành lập một trại trẻ mồ côi ở khu vực West Park-New York, ngày nay được gọi là Nhà Thánh Cabrini. Với niềm tin sâu sắc vào Thiên Chúa và khả năng quản lý tuyệt vời, các tổ chức của bà trải rộng khắp nước Mỹ.
Năm 1909, Cabrini trở thành công dân nhập tịch Hoa Kỳ. Tám năm sau, vào ngày 22 tháng 12 năm 1917, bà qua đời ở tuổi 67 tại bệnh viện Columbus, do biến chứng của bệnh kiết lỵ.
Thi thể của Thánh Frances Xavier Cabrini được khai quật năm 1931 như một phần của quá trình phong Thánh cho bà. Ngày 7 tháng 7 năm 1946, Cabrini trở thành công dân Hoa Kỳ đầu tiên được đức giáo hoàng Pius XII phong Thánh. Lễ kính cử hành vào ngày 13 tháng 11 hàng năm, và bà còn là Thánh bảo trợ của những người nhập cư. -
Thánh Edith Stein, hay còn được gọi là Teresa Benedicta Thánh Giá, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1891. Bà là một triết gia người Đức gốc Do Thái, đã cải đạo sang Công giáo và trở thành nữ tu dòng Carmelites.
Cảm động trước những bi kịch của Thế chiến thứ nhất, năm 1915, Edith theo học để trở thành trợ lý điều dưỡng và làm việc tại một bệnh viện chuyên chữa bệnh truyền nhiễm. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ tại đại học Freiburg năm 1916, bà đã nhận được công việc trợ lý cho nhà triết học Edmund Husserl. Từ việc đọc về cuộc đời của nhà cải cách dòng Carmelite - là Thánh Teresa thành Avila, Edith đã bị thu hút bởi đức tin Công giáo. Bà cải đạo và rửa tội ngày 1 tháng 1 năm 1922. Được nhận vào tu viện Carmelites ở Cologne vào ngày 14 tháng 10 năm 1933. Trong buổi chiều đầu tiên của lễ tôn vinh Thánh Teresa thành Avila, Edith nhận áo dòng khi còn là tập sinh, lấy tên là Teresa Benedicta Thánh Giá. Bà khấn trọn đời ngày 21 tháng 4 năm 1938.
Cùng năm đó, với chị gái ruột là Rosa, cả hai được gửi đến tu viện tại Echt-Hà Lan để đảm bảo sự an toàn của họ, vì sự phân nhánh chính trị ở Đức. Tuy nhiên, tất cả những người Công giáo gốc Do Thái đã được rửa tội đều bị bắt giữ bởi chính quyền; và khi Đức Quốc Xã xâm chiếm Hà Lan, Teresa cùng với chị gái Rose bị đưa đến trại tập trung ở Auschwitz. Họ qua đời do bị sát hại trong phòng hơi ngạt Birkenau, ngày 9 tháng 8 năm 1942.
Năm 1987, Thánh Edith Stein được phong Chân Phước tại Cologne bởi giáo hoàng John Paul II. Ngoài những đau khổ khôn tả của con người do Đức quốc xã gây ra ở Tây Âu, đã nảy nở một cuộc sống tốt đẹp của sự cống hiến, thánh hiến, cầu nguyện, ăn chay và sám hối của Thánh Edith. Mặc dù cuộc đời bà bị dập tắt bởi tội ác diệt chủng, nhưng ký ức của bà vẫn như một ánh sáng không hề mờ nhạt giữa cái ác, bóng tối và đau khổ. Edith Stein được phong Thánh vào ngày 11 tháng 10 năm 1998.
-
Thánh Mẹ Teresa có tên khai sinh là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà được sinh ra ở Macedonia ngày 26 tháng 8 năm 1910, là một nữ tu Công giáo người Albania gốc Ấn Độ, và là người sáng lập dòng tu. Ở tuổi 18, Teresa chuyển đến Ireland, sau đó đến Ấn Độ - nơi bà sống phần lớn cuộc đời.
Khi mới lên 8, cha của Teresa qua đời, khiến gia đình bà rơi vào tình trạng khó khăn tài chính. Việc đào tạo tôn giáo của bà được hỗ trợ bởi giáo xứ Dòng Tên Thánh Tâm - nơi bà tham gia khi còn trẻ. Sau khi chuyển sang theo đuổi công việc truyền giáo, Teresa rời nhà vào tháng 9 năm 1928, ở tuổi 18, để gia nhập tu viện Đức Trinh Nữ Maria ở Ireland. Bà nhận tên nữ tu là Mary Teresa - theo tên Thánh Teresa thành Lisieux. Vào tháng 12 năm 1929, bà khởi hành chuyến đi đầu tiên đến Ấn Độ rồi đến Calcutta. Sau khi khấn lần đầu vào tháng 5 năm 1931, Sơ Teresa được bổ nhiệm vào cộng đoàn Loreto Entally ở Calcutta và giảng dạy tại trường nữ sinh Thánh Mary. Bà khấn trọn đời ngày 24 tháng 5 năm 1937, từ đó được gọi là Mẹ Teresa.
Tiếp tục giảng dạy cho đến năm 1944 thì Mẹ Teresa trở thành hiệu trưởng của trường. Sau một khóa học ngắn hạn với các Nữ Tu Truyền Giáo Y Tế tại Patna, bà trở lại Calcutta và tìm được chỗ ở tạm thời tại dòng Các Nữ Tu Người Nghèo. Vào ngày 21 tháng 12, lần đầu tiên Mẹ Teresa đến khu ổ chuột để thăm các gia đình, rửa vết thương cho một số trẻ em, chăm sóc người già ốm cùng những người sắp lìa đời vì đói và bệnh lao. Bà bắt đầu mỗi ngày của mình bằng việc rước lễ, rồi ra ngoài với tràng hạt trong tay, để tìm kiếm, phục vụ những người bất hạnh. Sau vài tháng, lần lượt các học trò cũ của bà cũng tham gia cùng.
Ngày 7 tháng 10 năm 1950, cộng đoàn mới của Dòng Thừa Sai Bác Ái được chính thức thành lập tại tổng giáo phận Calcutta. Đến đầu những năm 1960, Mẹ Teresa bắt đầu gửi nữ tu của mình đến các vùng khác của Ấn Độ. Sắc lệnh khen ngợi do giáo hoàng Paul VI ban vào tháng 2 năm 1965, đã khuyến khích bà mở một tu viện ở Venezuela. Ngay sau đó là các cơ sở ở Rome, Tanzania, cuối cùng là ở mọi châu lục.
Thế giới bắt đầu hướng mắt về Mẹ Teresa; nhiều giải thưởng như: Padmashri của Ấn Độ năm 1962, đặc biệt là Giải Nobel Hòa bình năm 1979 đã vinh danh công việc của bà.
Bất chấp những vấn đề sức khỏe ngày càng trầm trọng vào cuối đời, Mẹ Teresa vẫn tiếp tục điều hành hội của mình, đáp ứng nhu cầu của người nghèo cũng như giáo hội. Đến năm 1997, dòng nữ tu của bà đã có gần 4.000 thành viên, được thành lập tại 610 cơ sở, ở 123 quốc gia trên thế giới.
Vào tháng 3 năm 1997, Thánh Mẹ Teresa chúc lành cho người kế nhiệm mới được bầu làm bề trên tổng quyền của Dòng Thừa Sai Bác Ái, sau đó bà thực hiện thêm một chuyến công du nước ngoài. Khi gặp Đức Thánh Cha John Paul II lần cuối, bà trở lại Calcutta và dành những tuần cuối cùng để tiếp đón các vị khách và hướng dẫn các nữ tu của mình.
Ngày 5 tháng 9 1997, cuộc đời trần thế của Mẹ Teresa kết thúc. Bà đã được chính phủ Ấn Độ vinh dự tổ chức tang lễ cấp nhà nước. Ngôi mộ của bà tại Dòng Thừa Sai Bác Ái nhanh chóng trở thành nơi hành hương, cầu nguyện cho mọi người thuộc mọi tín ngưỡng.
Như một minh chứng cho cuộc đời đáng chú ý nhất, giáo hoàng John Paul II đã cho phép mở án phong Thánh cho Mẹ Teresa. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê chuẩn sắc lệnh về các nhân đức anh hùng cùng phép lạ của bà. Và vào ngày 4 tháng 9 năm 2016, Mẹ Teresa được giáo hội Công giáo phong là Thánh Teresa Calcutta. Ngày giỗ cũng là ngày lễ kính của bà.