Top 10 Nữ chiến binh nổi danh nhất lịch sử Thế giới
Phụ nữ vốn chịu định kiến là phái yếu, chỉ thích hợp với công việc nội trợ, bếp núc. Nhiều người thường cho rằng, phụ nữ là phái yếu, khó có thể so sánh với ... xem thêm...những đấng nam nhi mưu trí khi tham gia chinh chiến. Nhưng lịch sử đã chỉ ra nhận định trên không hoàn toàn chính xác. Trong lịch sử thế giới có không ít những nữ chiến binh tài trí phi thường, đủ sức lãnh đạo đội quân lớn. Tuy nhiên, có những người phụ nữ lại nổi danh nơi trận mạc. Họ có thể là những người mẹ, người vợ, người chị nhưng cũng có thể trở thành những chiến binh dũng mãnh trên chiến trường không thua kém bất kỳ người đàn ông nào. Hãy cùng Toplist điểm mặt những vị nữ tướng nổi danh nhất trong suốt chiều dài lịch sử Thế giới.
-
Được đặt tên theo nữ thần săn bắn (Artemis), Artemisa I là nữ hoàng xứ Halicarnassus (nay là Thổ Nhĩ Kỳ) ở thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Tuy nhiên, bà nổi danh hơn với vai trò là một chỉ huy hải quân và là đồng minh của vua Xerxes xứ Ba Tư trong cuộc xâm lăng Hy Lạp của ông này. Tên tuổi của Artemisia gắn liền với trận hải chiến Salamis, khi bà dùng kế lừa cho quân Hy Lạp tin rằng mình đã tử trận khiến họ lơ là phòng bị. Sáng hôm sau Artemisia I chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công đánh tan hạm đội Hy lạp. Sử gia Hy Lạp Herodotus khen ngợi bà là một tướng lĩnh quyết đoán, thông minh, am hiểu chiến thuật và có phần tàn nhẫn.
Artemisia I được các sử gia đánh giá là một chiến binh quả cảm và vô cùng thông minh. Nữ hoàng của Halicarnassus đã đưa ra nhiều lời khuyên giá trị cho vua Xerxes của Ba Tư. Nữ hoàng Artemisia I trở thành đồng minh của vua Xerxes trong cuộc xâm lược các thành bang Hy Lạp. Trong ảnh là nữ diễn viên Eva Green thủ vai nữ tướng Artemisia I trong bộ phim "300: Rise of an Empire". Có nhiều giả thuyết về cái chết của Nữ hoàng Artemisia I. Nổi tiếng nhất là giai thoại nữ hoàng dũng mãnh này đem lòng yêu một hoàng tử có tên Dardanus. Tuy nhiên, hoàng tử Dardanus từ chối tình yêu của bà. Do tình yêu không được đáp lại, Nữ hoàng Artemisia I đã gieo mình xuống vách đá tại Leucas tự vẫn.
-
Joan of Arc hay Jeanne d'Arc không chỉ là một chiến binh huyền thoại mà còn là một vị thánh của Công giáo La Mã. Joan vốn chỉ là một cô gái nghèo tự nhận mình được thiên sứ Michael báo mộng chỉ lối đến gặp vua Pháp Charles VII nhằm giúp đỡ ông này chiếm lại những vùng đất bị quân Anh chiếm đóng trong cuộc chiến tranh trăm năm. Ban đầu cô bị các tướng lĩnh và binh lính xem thường vì thân phận thấp hèn và là một phụ nữ nhưng cô nhanh chóng thể hiện tài năng và bản lĩnh bằng chiến thắng Orleans vang dội. Chỉ mới 17 tuổi, Joan đã đóng một vai trò rất quan trọng trong hàng loạt các chiến thắng quan trọng của quân Pháp trước quân Anh đồng thời gián tiếp giúp vua Charles VII chính thức đăng cơ. Joan bị người Burgundians (những người Pháp nhưng trung thành với nước Anh) lừa bắt vào năm 1430. Sau hàng loạt các kế hoạch đào thoát bất thành, cô bị giám mục theo phe nước Anh xét xử, bị kết tội là phù thủy và bị hỏa thiêu khi chỉ 19 tuổi. Hai mươi tư năm sau, Giáo hoàng cho tra xét lại vụ án, và tuyên bố cô vô tội, đồng thời phong cô là một người tử vì đạo. Vào năm 1920, Joan of Arc chính thức được Giáo hoàng Benedict XV phong thánh.
Sinh ra trong một gia đình nông dân ở miền đông nước Pháp, Gioanna tuyên bố mình đã nhận được thiên khải từ Tổng lãnh thiên thần Micaen, dẫn dắt cô đến trợ giúp Charles VII giải phóng nước Pháp khỏi sự thống trị của quân Anh trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh trăm năm. Charles VII, khi đó chưa lên ngôi, đã gửi Gioanna đến cứu viện trong Cuộc vây thành Orléans. Cuộc tấn công bị đẩy lùi chỉ sau 9 ngày, giúp Gioanna trở thành một nhân vật tinh thần quan trọng trong quân đội Pháp. Một vài chiến thắng quan trọng khác đã góp phần đưa Carôlô VII lên ngai vàng, đặt dấu ấn quan trọng trong việc củng cố sĩ khí của quân đội và mở đường cho thắng lợi sau cùng của quân Pháp trước quân Anh. Ngày 23 tháng 5 năm 1430, bà bị phe Burgundy, phe phái quý tộc Pháp thân Anh, bắt sống tại Compiègne và bị giao cho quân Anh. Bà bị đưa ra xét xử bởi giám mục phe thân Anh, bị kết tội là phù thủy và bị thiêu sống vào ngày 30 tháng 5 năm 1431, khi mới 19 tuổi. Năm 1456, Giáo hoàng Canlíctô Tam Thế cho tra xét lại vụ án, xóa bỏ các cáo buộc chống lại bà và tuyên bố bà vô tội, sau đó phong Gioanna là một người tử vì đạo. Đến thế kỉ 16, Gioanna trở thành biểu tượng của Liên đoàn Công giáo Pháp và đến năm 1803, bà được công nhận là một anh hùng dân tộc của nước Pháp dưới thời Napoleon Bonaparte. Bà được nhận chân phước năm 1909 và được phong thánh năm 1920. Gioanna xứ Arc là một trong chín vị Thánh bảo trợ của nước Pháp.
-
Triệu Thị Trinh (bà Triệu) là một là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam và là một nữ tướng được các sử gia trên thế giới ca ngợi. Năm 248, khi mới 20 tuổi, Bà Triệu đã tụ tập được hơn ngàn tráng sĩ và dựng cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ tàn ác của nhà Đông Ngô. Bà đã thuyết phục được anh trai là Triệu Quốc Đạt tham gia cuộc khởi nghĩa bởi câu nói để đời "Em chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi cứu dân ra khỏi vòng nô lệ, chớ không muốn cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta..." Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi, cầm song kiếm, dáng vẻ oai phong lẫm liệt, ai cũng phải nể sợ. Khởi nghĩa Bà Triệu dành được thắng lợi trong thời gian đầu trước khi nhà Đông Ngô cử Lục Dận đem 8000 quân chi viện. Với sự chênh lệch về lực lượng quá lớn, cuộc khởi nghĩa thất bại. Bà Triệu chống giữ được vài tháng thì tuẫn tiết trên núi Tùng vì không muốn rơi vào tay giặc, khi đó bà mới chỉ 23 tuổi. Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.
Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226) tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rằn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên. Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt, bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ. Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em. Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
-
Nakano Takeko (1847 - 1868) là một trong số những nữ chiến binh samurai nổi tiếng nhất trong lịch sử Nhật Bản. Bà được đào tạo cả về văn học nghệ thuật lẫn võ nghệ trước khi tham gia vào cuộc chiến Boshin - cuộc nội chiến nhật bản bắt đầu từ ngày 3/1/1868 đến 18/5/1869. Trong trận Aizu mùa thu năm 1868, bà và những phụ nữ khác xin nhập ngũ nhưng không được công nhận là thành phần chính thức của quân đội phiên Aizu. Tuy nhiên, Takeko đã tập hợp những người phụ nữ này lại và thành lập một đội quân riêng tên gọi ''Jōshitai'' (đội quân phụ nữ). Bà sử dụng thành thạo Nagitana - một loại trường thương của Nhật Bản. Với thanh Nagitana trong tay, Takeko dành được nhiều vinh quang trong chiến trận nhưng không thể bảo vệ bà suốt bao cuộc chiến. Takeko bị bắn vào ngực khi đang dẫn quân tấn công quân đội của Đế quốc Nhật Bản ở vùng Ogaki. Cho rằng kẻ thù sẽ làm nhơ bẩn thân thể và sử dụng thủ cấp như một chiến lợi phẩm, bà đã yêu cầu em gái chặt đầu mình rồi đem đi chôn dưới gốc sồi. Ngày nay, một tượng đài được xây dựng ở gần chùa Hōkai, thuộc Fukushima nhằm tôn vinh nữ Samurai này.
Chứng nhận của Nakano (menkyo) là ở Hasso-Shoken, một nhánh của truyền thống Itto-ryu chính. Với sự thừa nhận chính thức về khả năng của mình, cô đã tìm được việc làm tại điền trang Itakura, lãnh chúa của Niwase, một lãnh địa thứ cấp ở tỉnh Okayama ngày nay. Cô đã dạy naginata cho vợ của lãnh chúa và phục vụ cô ấy như một thư ký của mình. Cô rời vị trí này vào năm 1863, khi cô được nhận nuôi bởi chủ nhân của mình, người đã được chuyển đến Osaka để làm công việc của miền Aizu và đã triển khai lực lượng ở Kyoto để làm nhiệm vụ an ninh. Anh đã cố gắng để cô kết hôn với cháu trai của mình, nhưng vì đất nước đang bị lung lay bởi tình trạng bất ổn xã hội, cô đã từ chối và đoàn tụ với gia đình Edo của mình. Võ tướng của Nakano có liên quan đến thời kỳ Chiến tranh Boshin, nơi chứng kiến hai phe đối lập trong một cuộc xung đột dân sự: những người ủng hộ trung thành của Mạc phủ Tokugawa chống lại những người ủng hộ việc khôi phục Thiên hoàng Minh Trị. Trong cuộc xung đột, Nakano Takeko đã làm việc để bảo vệ Shōgun Tokugawa Yoshinobu và tham gia vào Trận chiến Aizu, trong đó cô đã tạo nên sự khác biệt cho mình bằng cách chiến đấu chống lại một vũ khí trắng, vung một thanh naginata. Trong cuộc đụng độ với lực lượng đế quốc áp đảo, cùng với mẹ và em gái, cô là người đứng đầu một đội nữ chiến binh đặc biệt
-
Tomoe Gozen (1157 - 1247) là nữ chiến binh Samurai nổi tiếng nhất Nhật Bản. Theo sử sách, Tomoe Gozen là một người phụ nữ có vẻ đẹp thanh tú với làn da trắng và suối tóc đen dày, sống vào khoảng cuối thời Heian đầu thời kamakura.Từ Gozen luôn đứng sau tên của Tomoe không phải là họ mà là một kính ngữ nhằm tôn vinh những người phụ nữ có vị thế cao trong xã hội. Bà nổi danh khi chiến đấu dưới quyền gia tộc Minamoto trong cuộc chiến tranh Genpei. Trong cuốn Truyện kể Heike, Tomoe được mô tả là một nữ cung thủ với tay gươm đầy sức mạnh và có phần vượt trội so với nam giới. Các tài liệu lịch sử đều ghi lại rằng, bà luôn xuất hiện với dáng vẻ thật gan dạ phi thường và võ thuật tinh anh, là cánh tay phải đắc lực hỗ trợ bên cạnh các trận chiến của đức lang quân Yoshinaka giúp ông ta chiến thắng cả cuộc chiến Genpei. Sau này, bà giúp chồng chiến đấu chống lại người em họ Yoshitsune và lập được nhiều chiến công như chặt đầu một samurai đối thủ là Honda no Moroshige, giết chết dũng tướng Uchida Ieyoshi. Tuy nhiên, dù chiến đấu dũng cảm nhưng binh lực chênh lệch quá lớn nên cuối cùng Yoshinaka vẫn bị Yoshitsune đánh cho đại bại trong trận chiến tại Uji và Awazu. Sức cùng lực kiệt, Yoshinaka đành phải tháo chạy thoát thân, bên cạnh chỉ còn lại một vài binh sĩ cùng tùy tùng. Thấy rằng khó mà tránh khỏi cái chết, ông nói với Tomoe Gozen nên trốn đi vì ông muốn chết với người anh em kết nghĩa Imai no Shiro Kanehira và sẽ vô cùng nhục nhã nếu chết bên cạnh một người phụ nữ. Kể từ đó, Tomoe biến mất và hồi kết của đời bà vẫn là một bí ẩn trong sử sách.
Tính cách của Tomoe Gozen được khắc họa rõ nét trên chiến trận của samurai. Sự độc đáo này khiến bà trở thành một huyền thoại trong suốt chiều dài lịch sử của nước Nhật. Nhưng cũng có những tương truyền bí ẩn về cô. Đầu tiên là mối quan hệ của bà và Yoshinaka đã được đề cập tới không rõ ràng. Một phiên bản kể về thời kỳ của Heike Monogatari nhắc đến bà như là một gia khách hay một người hầu. Trong bản dịch của Sadler mô tả bà là một phụ nữ đẹp từ những suy đoán có thể bà là gia sư của Yoshinaka hay thậm chí là "người vợ chiến binh" của ông ấy. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự mập mờ trong lời kể lại các chiến công của bà. Lời thuật lại quá trình chiến đấu của Tomoe trong trận chiến Awazu trong Heike Monogatari ngắn gọn đến mức có thể kể lại toàn bộ câu chuyện một cách dễ dàng. Điều thú vị hơn là chương nhắc tới bà, với tiêu đề "Cái chết của Kiso" lại bắt đầu bằng việc Yoshinaka đã mang theo bên mình từ Shinano không chỉ một "mỹ nhân" mà những 2 người. Người còn lại là Yamabuki Gozen nhưng đã ngã bệnh phải ở lại kinh thành tịnh dưỡng. Có những phiên bản khác nhau về cuộc đời của Tomoe sau trận đánh cuối cùng của mình. Có chuyện kể lại rằng, sau trận đánh Awazu vào năm 1184, Tomoe đã giết chết Uchida Ieyoshi rồi từ bỏ thanh kiếm của mình. Nhưng cũng có câu chuyện lể rằng Tomoe đã bị đánh bại bởi Wada Yoshimori và phải trở thành vợ của samurai này. Sau khi Wada qua đời, Tomoe đã trở thành một nữ tu ở Echizen. Chính những câu chuyện khác nhau này khiến cho sự thật về Tomoe càng trở nên bí hiểm hơn.
-
Boudicca là nữ hoàng của bộ tộc Iceni, miền đông nước Anh trong thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên. Mặc dù rất nhiều người bản địa căm ghét sự chiếm đóng của quân đội La Mã nhưng một số người vẫn cộng tác với chúng và bộ tộc Iceni dưới sự lãnh đạo của chồng Boudicca, Prasutagus, là một trong những "vương quốc chư hầu". Tuy nhiên sau khi Prasutagus qua đời mà không có con trai nối dõi, người La mã trở mặt, hủy bỏ thỏa thuận trước đây và chiếm đóng khu vực của bộ tộc Iceni. Boudicca chống đối nhưng bị đánh đập và bị ép phải chứng kiến cảnh các con gái bị hãm hiếp. Khoảng những năm 60 trước công nguyên, Boudicca tập hợp được hơn 100.000 người Anh, phất cờ khởi nghĩa nhằm đánh đuổi người La Mã. Bà liên tiếp dành chiến thắng trong ba trận đánh lớn ở Colchester, London và St Albans. Cuộc khởi nghĩa của Boudicca khiến hoàng đế Nero sợ hãi và định rút quân khỏi nước Anh. Tuy nhiên với sự chi viện mạnh, quân La Mã dần chiếm lại thế thượng phong và đánh bại quân khởi nghĩa. Để không bị rơi vào tay kẻ thù, nữ hoàng Boudicca cùng các con gái đã uống thuốc độc tự vẫn. Hình tượng Boudicca ảnh hưởng rất lớn tới nghệ thuật, văn hóa nước Anh cho tới tận ngày nay.
Boudicca là người đã đứng ra đoàn kết các bộ lạc khác nhau của người Anh và dẫn dắt họ trong cuộc nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của người La Mã. Nhà văn La Mã Cassius Dio đã mô tả hình ảnh của Boudica như sau: "Bà có thân hình cao to, ánh mắt sắc như dao, còn giọng nói rất lớn. Mái tóc dày màu nâu đỏ của bà tung bay xuống tận eo. Bà luôn đeo một chiếc vòng vàng lớn quanh cổ cùng với một chiếc áo choàng màu xanh được cài chặt bằng một chiếc ghim". Mục tiêu đầu tiên của Boudica và người Anh là thành phố Colchester của người La Mã. Thành phố này được xem như là một biểu tượng cho sự cai trị người La Mã bởi nơi đây có một ngôi đền thờ hoàng đế La Mã Claudius. Thành phố được bảo vệ một cách lỏng lẻo, vì vậy người Anh không gặp khó khăn gì trong việc san phẳng nó. Suetonius - người La Mã đứng đầu thành phố này - lúc đó đang chiến đấu ở Anglesey. Khi biết được tin tức thì ông ta đã đến London - một trung tâm tài chính nhỏ nhưng phát triển mạnh ở thời kỳ đó. Ông ta đã cân nhắc việc bảo vệ London nhưng lo ngại về lực lượng ngày càng gia tăng của người Anh nổi loạn nên chỉ để lại đó một bộ phận nhỏ trấn giữ. Vì vậy, người Anh dễ dàng chiếm được London và sau đó đến Albans. Ước tính có hơn 80.000 người đã bị giết ở 3 thành phố trên. Boudica lúc này đang dẫn quân đội ngày càng lớn mạnh của mình lên phía bắc để gặp quân đội của Suetonius. Trên đường đi, quân đội của Boudicca đã phục kích thành công một đội lính La Mã đang hành quân dọc một con đường hẹp. Hai đội quân cuối cùng đã gặp nhau trong trận chiến công khai dọc phố Watling.
-
Không nổi danh trong quân đội như những nữ tướng kể trên, Grace O'Malley (1530 - 1603) được xem là một nữ hải tặc và là nữ chiến binh nổi tiếng thế kỷ XVI. Năm 1576, O'Malley tham gia vào quá trình đầu hàng và nhiếp chính với Phó Lãnh chúa Henry Sidney về vùng đất của cô. Bởi vì Rockfleet cách Dublin hơn một tuần hành quân, và vì cô ấy thường xuyên ở trên biển nên sự kiểm soát của Crown rất yếu. Năm 1593, trong lá thư để phản đối những tuyên bố của O'Malley chống lại ông, Sir Richard Bingham tuyên bố rằng bà là "y tá cho tất cả các cuộc nổi dậy trong tỉnh trong bốn mươi năm qua". Bingham là Chủ tịch Lãnh chúa của Connacht, được giao nhiệm vụ kiểm soát các lãnh chúa địa phương, những người hầu như đã tự trị cho đến lúc đó. O'Malley có mọi lý do và tận dụng mọi cơ hội để hạn chế sức mạnh của Vương quốc Ireland đối với phần đất nước của cô. Một đoàn thám hiểm từ Galway do Cảnh sát trưởng William Óge Martyn dẫn đầu đã tấn công lâu đài của cô tại Đảo Clare vào tháng 3 năm 1579. Tuy nhiên, họ đã bị hạ cánh và hầu như không thoát được.
Bà có biệt danh là Gráinne Mhaol bởi tính cách ngang tàng, nổi loạn thời trẻ của mình. Người phụ nữ dũng cảm này đã phá bỏ luật lệ, truất quyền người chồng hèn kém để trở thành tộc trưởng của gia tộc Ó Máille. Khi đã nắm quyền chỉ huy đội tàu của chồng, Grace không mất nhiều thời gian để chứng tỏ năng lực lãnh đạo bẩm sinh của mình. Hơn 200 người đã quyết định đi theo người chỉ huy mà mình đã tin cậy lựa chọn, nhiều người trong số đó đến từ các bộ tộc khác. Bà chỉ huy đội thuyền của mình tấn công mọi tàu bè dám đến gần lãnh thổ của mình, và đặt ra một loại thuế gọi là ''thuế lưu thông''. Bất kể kẻ nào dám không trả thuế đều bị đánh đập hoặc giết chết. Một giai thoại kể lại, ngay cả khi vừa sinh con, bà cũng cầm vũ khí đích thân chỉ huy thủy thủ đoàn của mình. Thách thức lớn nhất của Grace trong suốt sự nghiệp là cuộc đối đầu với nữ hoàng Anh Elizabeth I. Ngay cả khi quyền lực đã suy giảm so với trước, bà vẫn bạo dạn viết thư cho Nữ hoàng đòi quyền tự do cướp bóc miễn là đối tượng là kẻ thù của nước Anh. Sau cuộc gặp mặt trực tiếp, nữ hoàng Elizabeth I đã thả tự do cho con trai và em trai bà cũng như cho phép Grace quyền “chiến đấu với kẻ thù trên toàn thế giới”. Bà tiếp tục sự nghiệp của mình cho đến khi qua đời tại lâu đài Rockfleet năm 1603.
-
Nữ chiến binh người Apache được cho là đã ở độ tuổi 30 khi sát cánh cùng anh trai là Victorio và bộ tộc của mình tham gia vào cuộc tranh giành lãnh địa San Carlos vào thập niên 1870 tại Arizona - nơi được mệnh danh là “Hell's Forty Acres”. Vào giữa năm 1877, Victorio dẫn theo Lozen cùng một nhóm chiến binh Apache tấn công vào vùng núi đen New Mexico, nơi đang bị người Mỹ chiếm đóng. Lozen luôn cứu giúp phụ nữ và trẻ em trong mỗi cuộc tấn công của mình. Một trong số những người được bà cứu giúp là James Kaywaykla kể lại: ''Tôi đã nhìn thấy một người phụ nữ tuyệt vời cưỡi trên lưng con bạch mã đẹp tuyệt - Lozen, em gái của Victorio. Ông cũng kể thêm, Lozen thành thạo kỹ năng cưỡi ngựa, bắn súng và chiến đấu không khác gì đàn ông. Anh trai bà từng nói, "Lozen là cánh tay phải của tôi - mạnh mẽ như một người đàn ông, can đảm hơn bất kỳ ai và ranh ma trong cách đưa ra chiến lược. Lozen là lá chắn che chở cho người của bà ấy". Thật không may, Victorio tử trận đúng lúc Lozen đang đưa quân về lãnh thổ. Khi nghe về cuộc chiến và cái chết của anh trai mình, bà ngay lập tức lao ra cứu những người còn sống, khởi đầu cho những cuộc tàn sát trả thù khắp miền New Mexico năm 1881.
Do chênh lệch về lực lượng, Lozen bị bắt giữ, bà qua đời trong nhà tù vào năm 1889 vì bệnh lao phổi. Thi thể của Lozen được trả về bộ tộc để chôn cất ở ngôi đền thiêng liêng theo truyền thống Apache. Trong những năm 1870, Victorio và ban nhạc Apaches của ông đã được chuyển đến các điều kiện tồi tệ của Khu bảo tồn San Carlos ở Arizona. Ông và những người theo ông rời khỏi khu bảo tồn vào khoảng năm 1877 và bắt đầu cướp bóc và đột kích, tất cả trong khi trốn tránh sự truy bắt của quân đội. Lozen đã chiến đấu bên cạnh Victorio khi ông và những người theo ông rampaged chống lại người Mỹ đã chiếm đoạt quê hương của họ xung quanh phía tây bang New Mexico của Black Mountain. Khi ban nhạc chạy trốn và chiến đấu với lực lượng Mỹ trong Chiến tranh Victorio (1879-1881), Lozen đã truyền cảm hứng cho phụ nữ và trẻ em, bị chết cóng vì sợ hãi, vượt qua Rio Grande đang dâng trào . "Tôi đã nhìn thấy một người phụ nữ tuyệt đẹp trên một con ngựa xinh đẹp - Lozen, em gái của Victorio. Lozen - nữ chiến binh!", James Kaywaykla, một đứa trẻ vào thời điểm đó, đang cưỡi sau lưng bà của mình nhớ lại. "Trên đầu cao, cô ấy cầm khẩu súng trường của mình. Ngay lập tức, những người phụ nữ khác và trẻ em theo cô vào dòng nước. Khi họ đến bờ xa của con sông, lạnh và ẩm ướt nhưng còn sống, Lozen đến gặp mẹ của Kaywaykla, Gouyen. "Bạn chịu trách nhiệm, ngay bây giờ," cô ấy nói. "Tôi phải trở lại với các chiến binh", những người đứng giữa phụ nữ và trẻ em của họ và đội kỵ binh đang hành quân. Lozen phi ngựa ngược dòng sông hoang vu trở về với đồng đội.
-
Zenobia được sinh ra và lớn lên ở Palmyra thuộc Syria. Các nhà văn Latinh và Hy Lạp đều gọi bà là Zenobia. Cái tên La Mã của bà Julia Aurelia Zenobia và trong tiếng Hy Lạp, bà được biết đến với tên gọi Zēnobía hoặc Septimia Zenobia, cái tên lót Septimia được thêm vào sau khi kết hôn với Odaenathus Septimius. Tên tiếng Aramaic của bà là Bat-Zabbai và cũng được dùng để ký tên của mình. Với các nhà văn Ả Rập bà được biết đến với tên gọi al-Zabbā’. Zenobia xuất thân từ một gia đình gốc Ả Rập. Chính bà cũng tuyên bố mình thuộc về dòng dõi Seleukos của Cleopatra và Ptolemaios. Athanasius thành Alexandria ghi lại rằng bà là "một môn đồ Do Thái của Paul thành Samosata", điều này giải thích mối quan hệ căng thẳng giữa bà với các giáo sĩ Do Thái. Các tài liệu sau này của Ả Rập cũng tỏ ra hoài nghi về dấu hiệu gốc gác Ả Rập của bà. Al-Tabari lấy ví dụ viết rằng bà thuộc về bộ lạc Amlaqi giống như người chồng tương lai của mình, có lẽ cũng là một trong bốn bộ tộc khởi thủy của Palmyra. Cũng theo ông thì cha của Zenobia, Amr ibn al-Ẓarib là tộc trưởng của Amlaqi. Sau khi ông bị những thành viên của liên minh bộ lạc đối địch Tanukh giết chết, Zenobia trở thành người đứng đầu Amlaqis rồi dẫn dắt các thành viên đang sống kiểu du canh du cư đến những đồng cỏ mùa hè và mùa đông.
Zenobia trở thành nữ hoàng Palmyra (nay là Syria) sau khi ám sát chồng và con trai riêng vào năm 267 trước công nguyên. Chỉ trong vòng 2 năm chỉ vì, bà đã chống lại sự bành trướng của người La Mã và tự mở rộng lãnh thổ quốc gia bằng những cuộc xâm lược Ai Cập và Anatolia. Bà luôn tỏ ra là một nhà lãnh đạo coi trọng binh sĩ, sẵn sàng đi bộ hàng cây số cùng quân đội của mình. Với họ, bà là một nữ hoàng chiến binh thực sự. Zenobia kiểm soát được tuyến đường giao thương huyết mạch trước khi người La Mã tấn công và bao vây Emesa, nơi đặt ngân khố của bà. Bà cùng con trai là Vaballathus bị bắt giữ sau khi chạy trốn khỏi cuộc bao vây. Họ bị giữ làm con tin nhưng Vaballathus đã chết trên đường đến Rome. Người La Mã ăn mừng chiến thắng bằng cách trói Zenobia bằng những sợi xích vàng và kéo lê đi khắp các con phố như một cuộc diễu binh. Sau đó số phận của bà trở thành một uẩn khúc. Có người nó bà mất vì bạo bệnh hoặc tuyệt thực. Một giả thuyết khác lại cho rằng bà được Hoàng đế La Mã Aurelian khoan hồng và thả tự do. Sau đó bà kết hôn với một chính trị gia La Mã và sống cùng con gái trong ngôi nhà sang trọng.
-
Ahhotep I là một trong những nhà trị vị nổi bật trong thời kỳ tân vương quốc của nước Ai Cập cổ đại. Bà cũng là một nữ hoàng đóng vai trò then chốt trong việc tạo lập triều đại thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Bà cũng là người mở đường cho 2 con trai là Kamose và Ahmose I thống nhất Ai Cập sau khi bị người Hykso xâm chiếm. Được coi là một nữ hoàng chiến tranh, bà đã lãnh đạo quân đội chống lại người Hykso và được chôn cất cùng những vũ khí tượng trưng và 3 cờ danh dự vốn được tặng thưởng cho những chiến tích quân sự đặc biệt. Nội dung các dòng chữ khắc trên một bia tưởng niệm Ahhotep I cho hay: "Bà là người đã hoàn thành các nghi lễ chăm lo cho Ai Cập... Bà đã quan tâm tới quân lính Ai Cập, bảo vệ đất nước. Bà cũng đưa những người lưu vong quay trở lại và tập hợp những kẻ đào tẩu. Bà đã bình định Thượng Ai Cập và trục xuất những kẻ phiến loạn".
Ahhotep I là một Vương hậu có thể đóng vai trò then chốt trong việc tạo lập Vương triều thứ 18. Bà là một Vương hậu chiến tranh, bà đã lãnh đạo quân đội chống lại người Hyksos và được chôn cất cùng những vũ khí tượng trưng và 3 cờ danh dự vốn được tặng thưởng cho những chiến tích quân sự đặc biệt. Nội dung các dòng chữ khắc trên một bia tưởng niệm Ahhotep I cho hay: "Bà là người đã hoàn thành các nghi lễ chăm lo cho Ai Cập... Ahhotep được nhắc đến trên bia CG 34003 của người cháu là Amenhotep I và trên tấm bia CG 34009 của tổng quản Iuf. Trên tấm bia của Iuf, ông có nhắc đến tên của Ahhotep và Vương hậu Ahmose (vợ của Thutmose I, kế vị Amenhotep I). Vì vậy Ahhotep được cho là qua đời ở tuổi khá thọ. Không rõ nơi chôn cất ban đầu của Ahhotep I nhưng cỗ quan tài ngoài cùng của bà được phát hiện tại ngôi mộ TT320, được trang trí như của Ahmose-Nefertari và Ahmose-Meritamon (con gái riêng của Seqenenre). Tuy nhiên không tìm thấy xác ướp.