Top 9 Bài văn phân tích nhân vật tiêu biểu trong ngữ văn 12
"Văn học là nhân học” (M. Gorki). Văn học bao giờ cũng thể hiện cuộc sống của con người. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được nhà văn miêu tả thể ... xem thêm...hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có khi là những con người có họ tên hoặc không có họ tên nhưng lại phản ánh đời sống, khái quát hiện thực và giữ vai trò quyết định nội dung tư tưởng trong tác phẩm. Ngữ văn 12 có rất nhiều tác phẩm hay, đôi khi người đọc nhớ tên nhân vật hơn cả tên tác giả bởi mọi tâm huyết, mọi tài năng được nhà văn gửi gắm vào việc tạo hình nhân vật. Những nhân vật tiêu biểu nhất trong chương trình là ai, mời các bạn đọc một số bài phân tích mà Toplist đã sưu tầm sau:
-
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn thường đưa những câu chuyện, trải nghiệm thực tế của bản thân vào những tác phẩm văn học của mình. Vì thế, những tác phẩm của ông thường mang đến cho người đọc những cảm giác rất gần gũi, thân quen và chân thật. Trong cuộc sống mưu sinh, bộn bề kiếm tìm hạnh phúc thực sự, ông đã viết nên tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nổi bật trong câu chuyện là hình tượng nhân vật Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn tôn thờ và tha thiết được sống cùng cái đẹp.
Trong thời chiến tranh, người lính luôn là đề tài truyền biết bao cảm hứng dành cho các thi sĩ, nhà văn. Đối với Nguyễn Minh Châu, ông lấy cảm hứng để xây dựng nhân vật Phùng đã từng là một người lính, giờ là một phóng viên ảnh luôn khao khát cái đẹp.
Mở đầu câu chuyện bằng một tình huống đầy bất ngờ. Theo chỉ thị của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại nơi đây, đã có biết bao cảm xúc tràn về, những kỉ niệm cùng cảnh đẹp của đất trời đã khiến cho tâm hồn anh bị choáng ngợp. Sau biết bao ngày suy nghĩ, kiếm tìm ý tưởng, đề tài, anh đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và hết sức vừa ý. Đôi mắt anh đã bắt gặp một khung cảnh tuyệt vời “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. … trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy tâm hồn mình trở nên mộng mơ, trong trẻo biết bao. Đã biết bao lâu rồi, anh không tìm được cái đẹp đến nhường nào.
Thế nhưng, từ sau chiếc thuyền ngoài xa ấy, anh đã thấy một đôi vợ chồng hàng chài, lão đàn ông với dáng hình cộc cằn thẳng tay đánh vợ chỉ để giải tỏa nỗi thống khổ uất ức của mình. Một người đàn bà xấu xí, héo mòn được che chở bởi thằng con trai của bà - thằng Phác. Ngay lập tức, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất và chạy nhào tới”. Cái đẹp của cảnh vật chẳng thể che mờ những mảng tối của cuộc sống. Vẻ đẹp của Phùng càng được tỏa sáng nhờ tấm lòng nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn. Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ba ngày hôm sau Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Với tính cách của người lính, những người đã từng đổ biết bao công sức mồ hôi, máu và nước mắt để bảo vệ đất nước, mong cho nhân dân có được cuộc sống hạnh phúc ấm êm thì khung cảnh này thật đi ngược với những mong ước, mục tiêu của các anh. Chính vì thế, Phùng đã “nện cho hắn một trận ra trò”. Anh cũng bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Tại đây, người đàn bà nghèo khổ kia đã một mực van xin cho người chồng kia rằng “quý tòa đừng bắt con phải bỏ nó”. Khi con người ta phải chịu tù đày áp bức, tưởng rằng tự do sẽ là điều họ khao khát nhất. Thế nhưng, sau khi nghe câu chuyện của bà, Phùng và độc giả mới có thể hiểu được những uẩn khúc, lý do của những mảnh đời ấy.
Người đàn bà ấy luôn sẵn sàng chịu đựng khó khăn, đói nghèo vì chồng vì con. Với trách nhiệm là một người vợ, người mẹ đã truyền cho bà biết bao sức mạnh để đối diện với cuộc sống. Có những ngày “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chưa bao giờ bà tìm cách trốn chạy. Bà biết dù bà có rũ bỏ tất cả thì cũng không thể dứt bỏ được mối dây liện hệ với những đứa con của bà. Bạo lực gia đình luôn là một vấn đề nhức nhối trong xã hội, con người ta cứ phải luẩn quẩn trong vòng vây của những mối quan hệ gia đình mà chẳng có cách nào thoát khỏi nó. Những tổn thương mà người phụ nữ và những đứa trẻ vô tội phải chịu đựng, được che lấp ẩn chứa sau cái đẹp mà Phùng đã nhìn thấy. Bỗng nhiên, anh ý thức được rằng: hạnh phúc vẫn luôn gắn liền với khổ đau, cái đẹp luôn tiềm ẩn cái ác, cái xấu.
Sống trong hoàn cảnh khó khăn, cơm áo gạo tiền, con người ta vẫn luôn mưu cầu hạnh phúc. Biết bao dự định, giá như người ta muốn thực hiện. Giá như “tôi đẻ ít và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” của người phụ nữ ấy, giá như người đàn ông ấy có đầy đủ điều kiện để nuôi vợ chăm con của lão, có khi nào lão không trở thành một người như vậy. Có hàng vạn hàng nghìn lý lẽ mà người ta đưa ra để lý do giải thích cho cuộc đời họ, khi pháp luật nghiêm minh bảo vệ họ thì vẫn chẳng đủ để thay đổi được cuộc đời mà họ đã lựa chọn. Tác giả đã cho nhân vật Phùng được can thiệp, giúp đỡ những con người ấy nhưng họ từ chối. Phải chăng, con đường đấu tranh cho nhân quyền và thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ còn trở ngại, gian nan hơn cả cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.
Những trăn trở, suy nghĩ trong lòng Phùng chắc hẳn cũng chính là những dòng cảm nghĩ chung cho cả dân tộc. Li hôn liệu có thể giải quyết được những hậu quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Biết bao khó khăn, bão tố ngoài biển khơi cũng chẳng thể nào so sánh được với những chơi vơi, sóng gió của cuộc đời.
Chiếc thuyền ngoài xa qua lăng kính nghệ thuật của nhân vật Phùng, đã tô điểm nên cảnh đẹp của đất trời Việt Nam. Sâu xa trong những bức hình ảnh, những bi kịch, đắng cay vẫn đang ngày đêm diễn ra ở cuộc sống đời thường của những người lao động nghèo. Bằng tâm hồn của người lính, bằng lòng nhân hậu yêu trọng cái đẹp, hòa bình của người làm nghệ thuật, Phùng đã gắn kết những câu truyện, mảnh đời trong văn chương tới cuộc sống đời thực trở nên gần gũi, chân thật biết bao
-
Là một nhà văn gắn bó thân thuộc với nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán của nhiều vùng miền cùng vốn ngôn ngữ phong phú, lời văn giàu hình ảnh, Tô Hoài đã lưu lại dấu ấn riêng của mình trong trái tim bạn đọc các thế hệ. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn. Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét đặc sắc đánh dấu sự tinh tế và tài hoa nơi ngòi bút Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ đi chạy trốn nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết”. Có lẽ chính bởi những trải nghiệm khi được tiếp xúc với một hình mẫu thực cùng với tài năng, vốn hiểu biết về phong tục, lối sống người vùng cao mà nhà văn Tô Hoài đã chắp bút viết nên một tác phẩm xuất sắc. Hình tượng nhân vật Mị nhà văn xây dựng trong truyện đã để lại rất nhiều ấn tượng, nghĩ suy trong lòng độc giả.
Hình tượng nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài xây dựng trước hết là một cô gái với những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng. Đó là một cô gái người Mèo đang độ trẻ trung, hồn nhiên, được nhiều chàng trai ngày ngày đi theo bởi tài thổi sáo rồi thì “thổi lá cũng hay như thổi sáo” làm biết bao người mê say. Đó là một cô gái đã từng được yêu, từng yêu, luôn mang trong mình trái tim cháy bỏng yêu thương, hạnh phúc. Cô gái ấy cũng vô cùng hiếu thảo với mẹ cha, chăm chỉ làm lụng cũng như ý thức rõ được giá trị của một cuộc sống tự do. Mị sẵn sàng xin cha làm lụng trên nương ngô để trả nợ thay, để không phải về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bởi Mị hiểu rằng về đó đồng nghĩa với việc sa chân vào chốn tù đày, phải sống cuộc sống tù túng, mang danh con dâu nhà giàu nhưng phận tôi đòi hèn kém.
Bên cạnh đó, nhân vật Mị trong truyện còn hiện lên với hình ảnh là một nạn nhân của áp bức bất công, của thế lực phong kiến lộng quyền. Nhiều người nhìn Mị mà ghen tị vì được làm dâu con nhà giàu lắm của nhiều nương ở bản, nhưng thực tế, cuộc sống của Mị chốn nhà quan chẳng hề dễ dàng và hạnh phúc. Là con dâu gạt nợ, ngày ngày Mị bị bóc lột sức lao động, quần quật làm việc suốt ngày đêm đến cái ngưỡng nhiều lúc chính Mị còn cảm tưởng như mình chẳng bằng thân trâu, thân ngựa ngoài kia, rằng “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Dần dần, sống quá lâu trong cái khổ nên Mị quen khổ rồi, thân xác, tâm hồn ấy đã dần trở nên chai sạn với nỗi đau, với cực khổ đọa đày. Từ lúc nào mà Mị bỗng sống cuộc sống lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”.
Dẫu cho cuộc sống có bộn bề trăm nỗi khổ đau, ở nhân vật Mị ta vẫn bắt gặp một sức sống tiềm tàng, một khát khao sống, khát khao tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Khi bất ngờ trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí, bị A Sử bắt về làm vợ, Mị đã từng có ý định ăn lá ngón như là một cách để tự giải thoát mình. Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống đất trời rạo rực ngoài kia, không khí xuân tràn lên cuộc sống muôn người dường như phần nào đã đánh thức tâm hồn Mị khỏi những tháng ngày bị vùi mình trong đau khổ. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát, trong thoáng chốc tâm hồn ấy như được trở về với thời thanh xuân tươi trẻ, nồng nhiệt, với thời được sống tự do, hạnh phúc. Ý thức được giá trị của bản thân, của sự sống, Mị “thấy phơi phới trở lại” và rằng “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khi bị A Sử trói không cho đi chơi, tâm hồn Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo ngoài kia, trong những cuộc chơi náo nức, rộn ràng. Và khát khao hạnh phúc, khát khao tự do trở nên mãnh liệt nhất khi Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và sau đó chạy bỏ trốn theo A Phủ.
Qua từng trang truyện “Vợ chồng A Phủ”, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài khắc họa chân thực, sống động và qua số phận, nét đẹp tâm hồn ấy, ta cảm nhận được những thông điệp, những cảm xúc nghĩ suy sâu sắc mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc để từ đó thêm trân trọng tác phẩm và trân quý tài năng, sự tài hoa tinh tế của tác giả
-
Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ. Hình ảnh người đàn bà hàng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh thuyền biển lúc bình minh đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng éo le thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngất ngây sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người đàn bà dần hé lộ số phận và tính cách.
Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này? Người đàn bà trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.
Người đàn bà có thân hình "cao lớn với những nét thô kệch", "rỗ mặt", lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt "mệt mỏi", "tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệp. Ngay từ hình thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm éo le, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt - nơi ẩn giấu những bí ẩn của cuộc đời. Ở người đàn bà xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời không bình lặng. Đôi mắt "ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi... đưa cặp mắt nhìn xuống chân" đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng "nhìn vào chúng tôi, lần lượt từng người một", nói những lời đâu phải dẽ nghe sau những giây phút "sợ sệt, lúng túng,rón rén đến ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại". người đàn bà xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rổ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn ám ảnh Phùng mãi sau này.
Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc sống khổ đau, bất hạnh của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người đàn bà ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tâm thức bà luôn lo sợ các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì "bà cảm thấy đau đớn - vừa đau đướn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã". Bà đau vì không tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm như vậy như là để tạ tội với các con vì không thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống bấp bênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu đưuọc bản chất của chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo nhưu vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạ nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. "Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người. Đó là cái nhìn đa chiều , ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường
-
Nguyễn Minh Châu là ngọn cờ đầu trong phong trào đổi mới văn học giai đoạn đổi mới, đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyên Ngọc đã từng nhận định “Nguyễn Minh Chây thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của nền văn học ta hiện nay”. Đứng trước nhu cầu đổi mới văn học, ông không chỉ chuyển hướng từ khuynh hướng sử thi sang đời sống thế sự với bao bộn bề của cuộc sống, tầm vóc tư tưởng và tấm lòng nhân văn cao cả của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” bên cạnh nhân vật tư tưởng Phùng - người truyền tải những thông điệp, quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, đồng cảm, trân trọng với những giá trị tốt đẹp của người đàn bà thì nhân vật người đàn ông hàng chài, người gây nên bi kịch bạo lực gia đình cũng là nhân vật đáng chú ý, mang đến cho độc giả những suy tư, những cảm xúc phức tạp.
Người đàn ông hàng chài không được miêu tả trực tiếp mà xuất hiện qua đôi mắt của nhiếp ảnh gia Phùng khi chứng kiến cảnh người đàn ông ấy đánh vợ tàn bạo, và lần thứ hai xuất hiện là trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện.
Người đàn ông hàng chài theo lời kể của người đàn bà hàng chài vốn là “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”. Khi còn trẻ người đàn ông này đã không đi lính và trốn quân dịch nên cuộc sống của anh ta nghèo khổ, túng quẫn. Tuy cục tính nhưng người đàn ông ấy cũng là người giàu tình thương khi chấp nhận cưu mang người đàn bà trong lúc chị ta khốn khổ nhất. Khi ấy người đàn ông là mẫu người chồng lí tưởng, không bao giờ đánh vợ cũng không biết uống rượu, không biết hút thuốc. Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn với những gánh nặng gia đình đã khiến cho người đàn ông ấy thay đổi tâm tính, từ người đàn ông hiền lành hắn trở nên vũ phu, bạo lực với chính người vợ đầu gối tay ấp của mình.
Thông qua cái nhìn và những đánh giá của nhân vật Phùng về người đàn ông, ta có thể cảm nhận được về hoàn cảnh đói nghèo của gia đình hàng chài. Đó là người đàn ông cao lớn, thô kệch với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con mắt độc dữ”…Cái đói khèo, lam lũ của cuộc sống đã in hằn lên dáng vẻ của người đàn ông ấy. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính để trở thành kẻ vũ phu, tàn độc lấy việc đánh vợ ra để giải tỏa những bức bối, ức chế trong lòng mình.
Người đàn ông đối xử với vợ tàn nhẫn vô tình với những trận đòn roi vô lí “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, cách ông ta đối xử với vợ của mình hệt như cách đối xử với với kẻ thù, người gây ra mọi đau khổ của mình. Sự tàn nhẫn của ông ta thể hiện trực tiếp thông qua lời nói cục cằn, hung dữ “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ”. Từ lời quát tháo của người đàn ông ta có thể thấy được đây là một kẻ gia trưởng, độc tài tự cho mình cái quyền hành hạ, lăng mạ người khác.
Không chỉ khắc nghiệt trong lời nói, thái độ mà hành động đánh vợ của ông ta cũng có thể gây nên những phấn nộ, bất bình “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Sự tàn độc của người đàn ông không phỉa thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn ra một cách thường xuyên, đều đặn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Không chỉ đối xử tàn nhẫn với vợ mà người đàn ông ấy còn trút những bực dọc, ấm ức của bản thân lên chính đứa con của mình. Trước sự phản kháng của thằng Phát khi chống lại bố để bảo vệ mẹ, ông ta đã không nương tay khi giáng vào mặt đứa trẻ tội nghiệp ấy hai cái tát “..dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo dúi xuống cát”. Cách ông ta đối xử với vợ con như hành động của một con thú man rợ không có tình người.
Bên cạnh mặt bạo tàn, đáng trách thì người đàn ông cũng là con người đáng thương, là nạn nhân của đói khổ. Cuộc sống tuy khắc nghiệt với bao gánh nặng nhưng người đàn ông ấy không bỏ rơi vợ con mà vẫn cố gắng chèo chống con thuyền để lo việc mưu sinh. Cái cách ông ta thở hồng hộc khi đánh vợ cùng giọng rên rỉ đau đớn có thể thấy ông ta đang rất khổ tâm, đau đớn, xót xa. Ông ta giận đời, giận vợ và có lẽ giận cả mình nữa. Ông ta đánh vợ như đánh vào cái đau khổ vô hình mà hắn ta đang phải hững chịu.
Người đàn ông hàng chài là người gây nên bi kịch gia đình cho người đàn bà hàng chài nhưng đây cũng là nhân vật đáng thương, nhân vật chủ chốt để Nguyễn Minh Châu thể hiện những quan niệm, đánh giá về cuộc đời và nghệ thuật
-
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: "U đã về đấy!" Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?... Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải...
Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.
Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy. Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn". Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: "Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.” Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.
Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này. Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ - mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy.
Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa sót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta đựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì...”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng "nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được.
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót; “... Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” “bà nghẹn lời không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong.
Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói... Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già:"... chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được? ”tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ đằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những trang đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả...
Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều...
Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái lim người mẹ nông dân nghèo...
Qua "Vợ nhặt", Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con - người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ
-
Đọc tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta không chỉ ấn tượng với một Tnú kiên gan, dũng cảm nhưng cũng rất giàu tình yêu thương. Mà ta còn ấn tượng một già làng hết sức kiên cường, bất khuất, là sợi dây là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là người tiếp lửa và truyền lửa cho thế hệ mai sau.
Dù chỉ là một nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng cụ Mết có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy nên ngoại hình cũng như tính cách nhân vật luôn được nhà văn hết sức chú trọng.
Đọc những đoạn văn nói về cụ Mết, ta ấn tượng về một người già làng mạnh mẽ, quyết đoán, tuy lớn tuổi nhưng còn mạnh khỏe và hết sức minh mẫn: “một bàn tay trắc nịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt” những từ nhữ miêu tả khác như “quắc thước” “mắt sáng và xếch ngược” “vết thẹo ở má bên phải vẫn láng bóng” “ngưng căng như một cây xà nu lớn” đã cho thấy sức vóc, cũng như thần trí tinh thông của cụ.
Qua sự miêu tả của tác giả ta có thể thấy cụ Mết là người đàn ông từng trải, sắc sảo, kiên cường, có uy lực mạnh mẽ đối với cộng đồng. Những lời nói, lời chỉ huy của cụ hết sức mạnh mẽ, quyết đoán khi thì “vang” để kêu gọi đồng bào đứng lên khi lại “trầm và nặng” để kể về quá khứ lịch sử, để khắc sâu vào tâm khảm thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc, khơi dây lòng căm thù giặc. Lời khen đối với cụ là điều vô cùng hiếm hoi, ai làm tốt lắm, cụ cũng chỉ khen một chữ “được”. Yêu cầu cao đối với người khác như vậy, chứng tỏ bản thân cụ cũng rất khe khắt với chính mình.
Sâu thẳm trong tâm hồn người có vẻ ngoài kiên cường, cứng rắn ấy lại là con người có tình yêu quê hương sâu sắc, sự gắn bó sâu nặng với quê hương. Tình yêu quê hương được thể hiện qua những câu nói hết sức chân thành “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” “gạo người Strá mình làm ra là ngon nhất núi rừng này”. Đối với cụ Mết bất cứ sơn hào hải vị nào cũng không thể sánh được với sản vật quê hương.
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt, cụ Mết chính là cây xà nu lớn, là chỗ dựa tinh thần cho bản làng, để đưa đường chỉ lối cho nhân dân. Cụ là người đem Đảng đến với mọi người, cụ trung thành tuyệt đối với cách mạng. Đối với cụ “cán bộ là Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ gắn sinh mệnh của nhân làng với sinh mệnh của Đảng, từ đó nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người phải hết mình cống hiến cho đảng, tiêu diệt giặc Mĩ. Trong năm tháng kháng chiến gian khổ với Mĩ, cụ cũng là người có tầm nhìn xa trông rộng, cụ luôn động viên, dặn dò mọi người dự trữ lương thực, bởi cuộc chiến với giặc Mĩ là cuộc chiến trường kì.
Nếu như Tnú có đôi lúc vì tình thân mà có những hành động cảm tính thì cụ Mết lại là người hết sức tỉnh táo, sáng suốt trong việc nhận định tình hình. Cụ có thể khống chế cảm xúc của bản thân trong những lúc gay go, quyết liệt nhất để đưa ra những hành động chính xác, đứng đắn lãnh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh. Trước trận đòn roi mà Mai phải chịu đựng, cụ đã có quyết định hết sức sáng suốt “Tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tạo quay vào rừng… tìm bọn thanh niên… tìm giáo mác”. Ý chí sáng suốt đó của người đứng đầu đã giúp dân làng chiến thắng lại kẻ thù tàn bạo.
Trong quá trình đấu tranh sẽ xảy ra biết bao đau thương mất mát. Kể lại với con cháu, cụ Mết không chỉ nhắc lại những đau thương, những chiến thắng ta đạt được, mà còn khái quát quy luật trong chiến đấu, trong cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Sự khái quát đó là vô cùng chính xác và đúng đắn với lịch sử cách mạng nước nhà. Khi quân thù xâm lược, ta không thể nhún nhường, nhượng bộ mà phải sử dụng bạo lực cách mạng để giành lại tự do, độc lập cho muôn dân.
Cụ Mết là một hình tượng đẹp đẽ, là người đứng đầu, người dẫn dắt chỉ lối cho thế hệ mai sau. Với ngòi bút miêu tả đặc sắc, chân thật tác giả đã tạc lại cho bạn đọc một chân dung thật sống động về người già làng của người Tây Nguyên. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành thể hiện tấm lòng ca ngợi chân thành với những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc kháng chiến trường kì với đế quốc Mĩ.
-
Tố Hữu từng cho rằng: “Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”. Hiện thực cuộc sống luôn là mảnh đất màu mỡ, phong phú mà nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ là ngọn gió mát lành âm ĩ thổi vào, phản ánh thông qua tác phẩm văn học. Thiên chức cao quý của văn học bên cạnh việc xây dựng những hình tượng hướng đến giá trị Chân, Thiện, Mĩ của cuộc sống còn là việc vạch trần, phê phán, lên án bản chất xấu xa hay những hành động chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc con người. Hình ảnh bọn phong kiến tay sai của thực dân Pháp và bè lũ bán nước trong xã hội cũ cũng là một khía cạnh để văn học soi chiếu. Nếu như trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có Nghị Quế, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan có Nghị Lại, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng có Nghị Hách thì trong “Vợ chồng A Phủ” - câu chuyện của những người lao động vùng cao Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài - có hình ảnh thống lí Pá Tra, một nhân vật phản diện đại diện sự tàn bạo, ác độc của tay sai thực dân, chúa đất áp bức đày đọa, giam hãm con người. Mị trong tác phẩm là nạn nhân của sự đày ải đớn đau đó.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thấm đẫm chất hiện thực. Dưới ngòi bút hiện thực sắc sảo của một nhà văn tài năng, cuộc sống đau thương của người dân vùng cao và hình ảnh của bọn thống trị hiện lên thật cụ thể, rõ nét. Thống lí Pá Tra trong câu chuyện là nhân vật đại diện cho chế độ cai trị độc địa, sự tàn ác, vô nhân đạo của bọn tay sai thực dân, chúa đất lúc bấy giờ. Thời gian được phản ánh trong truyện là một thời kì đáng nhớ của lịch sử dân tộc, thời đại mà đồng bào Tây Bắc sống tăm tối, bị áp bức, bóc lột trước ngày giải phóng. Một nhà văn đã từng nói: “Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật, ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại”, Pá Tra là một nhân vật điển hình như thế. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước ngày giải phóng, điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải,... một kiểu phong kiến miền núi bạo tàn, khắc nghiệt hơn nhiều so với chế độ phong kiến miền xuôi trong văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan...
Trước hết, Pá Tra là một người giàu có. Mở đầu câu chuyện, Tô Hoài viết: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” . Cách giới thiệu câu chuyện của Tô Hoài nhẹ nhàng man mác hơi thở của cổ tích mà Mị là nhân vật hiền từ, bị áp bức, Pá Tra là tên tay sai bán nước man rợ dã tâm. Ngay cả việc mỗi năm bố Mị phải trả một nương ngô cho nhà thống lí vì món nợ “truyền kiếp” mà ngày xưa bố Mị phải vay của bố thống lí Pá Tra bây giờ cũng đủ biết hắn ta xảo trá đến nhường nào. Sự giàu sang của Pá Tra là do “ăn của dân nhiều”, bao nhiều mồ hôi, nước mắt, công sức của người dân bị Pá Tra nuốt trọn. Trong xã hội ấy, những người giàu đó đa phần là những người lừa lọc, gian hùng, tham lam, tàn ác. Bởi thế, ngay khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”, Mị xót xa chối từ: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Lối sống của Pá Tra là lối sống trụy lạc, đắm chìm trong những thú vui sa đọa mà thuở ấy thực dân Pháp tìm cách du nhập vào nước ta, làm biến chất nhân dân ta. Pá Tra chìm trong cơn nghiện ngập, lúc nằm nghỉ, lúc xử tội A Phủ hắn đều rít thuốc phiện: “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”.
Pá Tra đã dùng thần quyền, cường quyền và tiền quyền biến người lai động nghèo khổ trở thành nô lệ không công suốt đời cho hắn. Bản chất ngang ngược, độc địa, vô nhân tính là bản chất của Pá Tra. Điều này góp phần làm tăng tính chân thực của tác phẩm. Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau, là những nạn nhân tiêu biểu của chế độ dã man khi ấy. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi.
Pá Tra đã dùng cường quyền hung bạo để đày đọa con người: Hành động cho người bắt Mị về làm con dâu gạt nợ rồi mới cho A Sử về nhà bố Mị báo tin “đã cướp được con gái bố làm vợ” là hành động của kẻ tiểu nhân, xảo quyệt, gian hùng. Từ đây, một đoạn đời đau khổ của Mị được mở ra: quẩn quanh, buồn tẻ, mất đi lòng ham sống. Ở đây, trên danh nghĩa Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có, vợ A Sử, dưới danh nghĩa lại là con ở không công. Mị bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ, đánh đập, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc vốn có của một con người. Đã bao lần Mị tìm đến cái chết để giải thoát, nhưng rồi lại thôi. Chính việc Mị không còn muốn chết, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa” mới là điều đau đớn. Cha con thống lí đã biến Mị trở nên vô tri, mất đi nhận thức về nỗi khổ của mình.
Pá Tra đã dùng thần quyền để giam hãm tâm hồn con người. Bắt Mị về hắn cũng cúng trình con ma, “tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” ngoài tấm vách bất giác người đọc rờn rợn bởi thủ đoạn “giam lỏng” con người của thống lí Pá Tra. Khi Pá Tra cho A Phủ vay tiền để trả nợ cho hắn thì hắn cũng “đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”. Qua những chi tiết khắc họa hủ tục phong kiến lạc hậu trong truyện: tiếng nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma, chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồn tối, bắt người đàn bà theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác họa bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.
Trong phiên tòa xử kiện vụ án A Phủ đánh con quan, người đọc thấy được bản chất thâm độc, hung tợn của Pá Tra. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, ai đụng phải cũng đều chịu những hình phạt dã man, đau đớn của hắn. Khi A Phủ bị giải về nhà thống lí, A Phủ liên tục bị đánh: “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ”. Cứ mỗi đợt thống lí hút thuốc phiện xong, A Phủ lại bị “người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Nhà văn hạ bút viết câu văn nhẹ nhàng mà đau xót biết bao: “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Thống lí Pá Tra là tên lọc lõi, mưu mô. Hắn biến A Phủ thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Hình phạt của A Phủ mà hắn đưa ra là “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”. Mọi lợi lộc đều về phần quan, Pá Tra chẳng mất gì, còn A Phủ thì phải ở đợ cho hắn đến suốt đời, suốt kiếp.Cha con nhà thống lí coi rẻ sinh mạng con người. Ở đây, ta thấy được chế độ phong kiến miền núi còn đầu địa, bạo tàn hơn chế độ phong kiến miền xuôi. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy: “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Cảnh Mị bị trói ngay khi Mị sắp trở về với cuộc sống bình thường, với chính mình, trông thật thảm hại: “tay chân đau không cựa được”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Cảnh “A Phủ bị trói chờ chết” và nỗi lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.
Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, gian tà của thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực của câu chuyện nằm ở chỗ ấy.
-
Nhắc đến nhà văn Kim Lân thì nhiều người sẽ nghĩ ngay tới “Vợ nhặt” - một tác phẩm nổi tiếng của ông. Bạn đọc biết đến “Vợ nhặt” như là một minh chứng chân thực nhất cho cuộc đời và số phận của con người trong nạn đói 1945 lịch sử. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân là khắc họa nhân vật Tràng - một người đàn ông nghèo khổ tiêu biểu cho những người nghèo khổ và qua đó để làm nổi bật tinh thần nhân đạo nhân văn về tình yêu thương con người.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, và cụ thể là ở một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Tình huống truyện ở đây là việc anh cu Tràng có vợ, nhưng không phải được cưới hỏi đàng hoàng mà là vô tình “nhặt” từ ngoài đường về. Qua sự kiện mang tính độc đáo và bất ngờ này, nhà văn đã đi sâu vào tâm lý từng nhân vật và qua cho làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người thấp cổ bé họng nghèo đói, bần cùng.
Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn mà khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm. Tràng là một anh con trai nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò thuê, sống với mẹ già ở một cái “nhà” đứng rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại cuối xóm ngụ cư. Chính vì là dân ngụ cư cho nên Tràng bị coi khinh, chẳng ai buồn nói chuyện, trừ lũ trẻ hay trêu chọc mỗi khi anh đi làm về.
Chỉ với nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng có những ý nghĩ gì vừa lý thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.
Thế nhưng, Tràng dường như chẳng hề thấy buồn, thấy cô độc. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm “ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên”. “Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Chính vì thế cho nên anh chơi đùa với chúng, làm “cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút”.
Không những thế, Tràng cũng chẳng biết tính toán, suy nghĩ cũng giản đơn. Ngay cả chuyện trọng đại của đời người như lấy vợ cũng được anh quyết định rất nhanh chóng. Có lẽ từ trước nay chưa có ai lấy vợ nhanh như Tràng. Chỉ cần một câu hò và bốn bát bánh đúc, Tràng đã có một cô ả theo về làm vợ chồng. Một người xấu xí, nghèo đói và thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ, nhất lại là trong lúc “chết đói” thì quả đúng là đám cưới có một không hai.
Thực ra ban đầu, Tràng chẳng chủ tâm đưa tình đẩy ý với cô nào trong đám con gái bên đường hôm ấy. Chẳng ngờ, chỉ vì một câu hò vui cho đỡ nhọc mà thị lon ton đến đẩy xe bò cho anh và đòi trả công. Thấy người đàn bà đói, Tràng cũng hào phóng mời thị ăn rồi ngỏ ý mời về cùng. Chỉ sau bốn bát bánh đúc và lời mời của Tràng, thị đã trở thành vợ của anh ta. Tràng có vợ, lấy được vợ trước hết là vì lòng thương nhân hậu đối với một con người cùng cảnh ngộ với mình, thậm chí đói khát hơn mình.
Lấy nhau không phải vì tình yêu, mà là vì bốn bát bánh đúc và hai câu nói bông đùa nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ mình. “Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê”. Anh còn mua 2 hào dầu thắp để “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí”. Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc, có điều gì đó kì lạ và mới mẻ chưa bao giờ anh thấy được: “Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.
Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Sáng hôm sau trở dậy, Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra”. Việc có vợ với Tràng cho đến sáng hôm sau vẫn như là một giấc mơ. Nhưng nhìn thấy cửa nhà sạch sẽ tinh tươm, nhìn thấy mẹ và vợ mình, Tràng thấy mình cần có trách nhiệm hơn. “Hắn đã có một gia đình”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn muốn sửa lại căn nhà để sau này “hắn cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”.
Có thể thấy rằng, từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết sống vô tư, chơi đùa cùng lũ trẻ, Tràng đã trở thành người biết quan tâm đến người khác, đến những chuyện khác ngoài xã hội. Khi tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, “Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi”. Hình ảnh về đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới xuất hiện trong tâm trí anh như thể một tia sáng về những điều tốt đẹp đang chờ sẽ đến.
Trong nạn đói 1945, Tràng không phải là một cá biệt mà có rất nhiều những “anh cu Tràng” khốn khổ như vậy. Cuộc đời Tràng là một minh chứng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Nghèo đói nên bị người ta coi thường, khinh rẻ, nghèo đến nỗi không lấy được vợ mà khi lấy vợ thì hẳn là “nhặt vợ” chứ không phải là “cưới vợ”. Lấy vợ giữa cái đói quay đói quắt, cả anh cu Tràng cho đến vợ và bà cụ Tứ đều cảm thấy hạnh phúc đan xen lẫn chua xót. Bởi “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”.
Cũng như Tràng hay bất cứ người nghèo nào khác, nếu không có một sự thay đổi mang tính cách mạng thì có lẽ sẽ phải sống mãi trong sự tăm tối, đói rách. Ở nhân vật Tràng tuy chưa có sự thay đổi lớn láo đó, nhưng trong ý nghĩ của anh đã xuất hiện những tia sáng cho hướng đi mới của cuộc đời. Hình ảnh đoàn người vùng lên phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ sao vàng chính là con đường Tràng sẽ đi, và trong thực tế lịch sự người nông dân Việt Nam đã đi theo con đường cách mạng đó.
Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Kim Lân đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một anh cu Tràng nghèo đói nhưng thật thà nhân hậu với đầy đủ những hành động, diễn biến tâm trạng phức tạp, đan xen. Anh chợn nghĩ, đôi chút lo lắng lẫn hành diện khi nhặt được vợ. Có lúc lại đon đả, lúng túng đi theo người đàn bà. Có khi lại hạnh phúc mơ màng quên hết những cảnh tăm tối trước kia. Anh vô tư nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng chín chắn, biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.
Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc.
-
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm trí của tác giả cũng là trong tâm trí của người dân miền Bắc. Nạn đói thê thảm bao trùm khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một trong những nhân vật độc đáo nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ẩn chứa nhiều quan niệm nghệ thuật và triết lý sống sâu sắc.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói vô cùng thê thảm, thị bị cái đói dồn tới bước khó khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái tên riêng cho mình. Cái đói, cái nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, làm cho chị ta tiều tụy cả về hình dáng: “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “cái bụng gầy lép”, “bộ quần áo rách như tổ đỉa”. Thị “ton ton” chạy theo Tràng đẩy xe, liếc mắt cười tình. Thị “sưng sỉa” đòi ăn. Thị “chao chát”, “chỏng lỏn”, “đon đả”: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì!”… Vì miếng ăn nhất thời mà chị sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ. Vài câu nói tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc mà thị trở thành vợ “nhặt về” của anh phu Tràng - một kẻ ế, nghèo, ngơ ngẩn. “Cô dâu” - thị về nhà chồng mà không tài sản, không nhan sắc. Cái đói khiến thị thành vật vô giá trị. Về phương diện này người vợ nhặt còn không bằng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mị tuy bị áp bức tới vô cảm, chẳng bằng thân trâu ngựa nhưng ít ra còn xinh đẹp và tài hoa. Còn thị, ngay cả cái phần ưu ái thường dành riêng cho phụ nữ thì tạo hóa cũng từ chối cho người đàn bà này. Cuộc sống đã đói khổ khiến thị mất đi cái duyên con gái, vừa nghe được ăn thì đã “ton ton chạy lại đẩy xe bò” cho Tràng. Rồi lại còn “chạy tới xưng xỉa đòi ăn”, đến khi được ăn thì “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” và “hai con mắt trũng hoáy sáng lên”. Thị gần như mất hết lòng tự trọng, chẳng có nét gì là của người phụ nữ nông thôn.
Thế nhưng bản chất của chị không phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất là do hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Cho nên cho đến khi được hạnh phúc gia đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Từ khi trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về nhà chồng. Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác. Thị biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sân vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong, cái ang khô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới cho căn nhà. Bữa cơm ngày đói tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng chính thị là người khơi dậy khát vọng sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. Chi tiết này đã hé mở con đường giải thoát cuộc đời cho con người và khao khát một tương lai tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.
Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh tình trạng thê thảm và niềm thương cảm sâu sắc với số phận con người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân cho bản chất tốt đẹp của con người, cho khát vọng hạnh phúc gia đình và hiện thân của khát vọng sống.