Top 11 Nhà thờ nổi tiếng tại TP. Hồ Chí Minh
Thiên chúa giáo bắt đầu được truyền vào Việt Nam bởi các nhà truyền giáo phương Tây vào năm 1533, nhưng nó chỉ trở nên phổ biến khi triều đình Huế chấp nhận sự ... xem thêm...bảo hộ của Pháp. Từ đó, nhiều nhà thờ cũng được xây dựng lên. Sau đây sẽ là liệt kê một số nhà thờ nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.
-
Xây dựng từ năm 1863 đến năm 1880 bởi thực dân Pháp, Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn là nhà thờ ấn tượng nhất Việt Nam. Được xây dựng theo mô hình Nhà thờ Đức Bà Paris và bằng vật liệu vận chuyển từ Pháp sang, nơi đây là trung tâm tôn giáo của 6,2 triệu người Công giáo Việt Nam.
Nhà thờ Đức Bà - Vương cung Thánh đường Sài Gòn đã có nhiều tên gọi khác nhau trong những năm qua. Nó bắt đầu ra đời năm 1863 với tên gọi Nhà thờ Sài Gòn, được thực dân Pháp xây dựng ngay sau khi Pháp xâm chiếm và bắt đầu đô hộ Sài Gòn. Nhà thờ Sài Gòn là công trình xây dựng đơn sơ bằng gỗ, bị mối mọt làm hư hại nặng nên phải xây dựng lại.
Một cuộc thi thiết kế đã được tổ chức, mà kiến trúc sư người Pháp Jules Bourard, một chuyên gia về kiến trúc tôn giáo đã giành chiến thắng. Kế hoạch của ông cũng giống như người Pháp: xây dựng một phiên bản nhỏ hơn của Nhà thờ Đức Bà Paris, phản ánh hình thức của nhà thờ nổi tiếng theo phong cách Romanesque và Gothic của Pháp.Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên vào tháng 10 năm 1877, lễ hoàn thành được tổ chức vào tháng 4 năm 1880. Hầu hết các vật liệu sử dụng để xây dựng nhà thờ đã được vận chuyển từ Pháp, bao gồm cả gạch từ Toulouse mang lại cho nhà thờ màu đỏ đặc trưng, như vẫn thấy ngày nay.
Năm 1959, một bức tượng Đức Mẹ Hòa bình lắp đặt bên ngoài nhà thờ, làm bằng đá Granit ở Rome. Sau lễ tạc tượng, nhà thờ Sài Gòn thường được biết đến với tên gọi Nhà thờ Đức Bà. Năm 1960, nó chính thức mang danh hiệu Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn, hai năm sau đó được Đức Giáo hoàng Gioan XXIII xức dầu, đạt danh hiệu Vương cung thánh đường và lấy danh hiệu hiện nay là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Lần cuối cùng nhà thờ được báo chí quốc tế chú ý là vào tháng 10 năm 2005. Theo một số nhân chứng nhiệt thành, bức tượng Đức mẹ đồng trinh Maria nằm ngay bên ngoài nhà thờ có một giọt nước mắt chảy dài trên má phải của bà, làm vấy bẩn khuôn mặt bằng đá Granit đã khiến hàng nghìn người đổ xô đến để xem phép lạ này. Giao thông xung quanh nhà thờ tạm dừng và cảnh sát đã được gọi đến để duy trì trật tự.Vết bẩn vẫn tồn tại hơn một tuần và hàng trăm người từ khắp đất nước đến xem mỗi ngày. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Việt Nam không thể xác nhận rằng bức tượng Đức mẹ đồng trinh đã rơi nước mắt thực sự hay chưa.
-
Lịch sử của Giáo xứ Chợ Quán gắn liền với quá trình mở mang lãnh thổ của Nhà Nguyễn về phương Nam. Vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, nhiều giáo dân, đặc biệt là từ miền Trung Việt Nam, những người muốn lập nghiệp mới ở miền Nam hoặc tránh chiến tranh, xung đột và nạn đói, đã di cư đến vùng đất này và tụ họp lại thành một làng có tên là Xóm Bột. Tại làng, họ mở chợ với nhiều gian hàng với mục đích phục vụ đời sống sinh hoạt của cư dân địa phương. Chợ có tên là Chợ Quán, sau này dùng để gọi các khu phố xung quanh.
Giáo xứ Chợ Quán chính thức được thành lập năm 1722. Thời điểm đó, nhiều linh mục đã đến đây để chăn dắt các tín hữu cơ đốc, từ dòng Phanxico đến các nhà truyền giáo Việt Nam. Cho đến năm 1725, giáo xứ có khoảng 300 giáo dân . Các nhà truyền giáo đã phải đối mặt với nhiều khó khăn khi truyền đạo do những mâu thuẫn xã hội và chính sách chống Thiên Chúa giáo của chính quyền lúc bấy giờ.
Nhà nguyện đầu tiên của Giáo xứ Chợ Quán được xây dựng năm 1674 nhưng mãi đến năm 1723, linh mục Dòng Tên Emmanuel Quitaon đến giảng đạo và chuyển nhà nguyện thành nhà thờ cho giáo dân. Sau đó, do thiên tai và sự tàn phá của con người, Nhà thờ Chợ Quán đã nhiều lần bị phá bỏ và xây dựng lại vào các năm 1727, 1733, 1793, 1862 và 1882.
Năm 1882 linh mục Nicola Hamm bắt đầu xây dựng một nhà thờ mới. Công trình này kéo dài 14 năm, trải qua 6 đời linh mục và được hoàn thành năm 1896. Nhà thờ mới được khánh thành ngày 4 tháng Giêng âm lịch năm Bính Thân (1896). Đây cũng là công trình xây dựng nhà thờ cuối cùng mà chúng ta có thể nhìn thấy bây giờ. Để ghi nhớ công lao đóng góp xây dựng nhà thờ, sau khi qua đời, linh mục Nicola Hamm được an táng tại Nhà thờ Chợ Quán, bên cạnh bàn thờ Đức Mẹ.
Với tổng diện tích 16.922m2 , công trình Giáo xứ Chợ Quán không chỉ bao gồm nhà thờ mà còn có nhiều công trình liên quan như trường tiểu học công lập, nhà tình thương, sân vườn nhiều cây xanh. Hiện nay Nhà thờ Chợ Quán có phòng khám từ thiện do Hội Chữ thập đỏ Quận 5 quản lý. Ngoài ra, nơi đây còn có nơi sinh hoạt cộng đồng của người dân xung quanh như chạy bộ, tập thể dục buổi sáng hay tận hưởng không khí trong lành ở công viên trước nhà thờ. Công trình nhà thờ gồm có gian giữa, gác chuông, nhà giáo lý 12 gian, phòng họp, phòng hài cốt và phòng đọc sách. Tất cả đều được bố trí hài hòa, đẹp mắt mang lại cảm giác thư thái, dễ chịu cho các giáo dân cũng như du khách.
Điều đáng chú ý nhất bên ngoài nhà thờ chắc chắn là tháp chuông, có thể dễ dàng nhìn thấy từ xa. Tháp chuông Nhà thờ Chợ Quán khá khác biệt so với các tháp chuông khác trong công trình Công giáo. Nó gồm ba tầng, từ thấp đến cao là tầng kéo chuông, tầng gác chuông và tầng trên cùng. Trong tháp có 5 quả chuông, 2 quả chuông dùng cho ngày thường, 2 quả chuông dùng trong những dịp quan trọng và 1 quả chuông dùng trong tang lễ. Chỉ vào những ngày lễ đặc biệt, cả năm tiếng chuông mới cùng nhau rung lên. Một điều thú vị khác về những chiếc chuông là 5 chiếc chuông được vận chuyển từ Pháp sang bằng đường biển và di chuyển đến tháp với sự giúp đỡ của 5 con voi. Trải qua lịch sử hơn 100 năm của công trình này, tháp chuông đã được sửa chữa ba lần.
Màu sắc bên trong Nhà thờ Chợ Quán là sự kết hợp giữa màu trắng của vòm trần , màu vàng tươi của cột và màu nâu của đồ nội thất. Cửa sổ nhà thờ không phải là cửa sổ kính màu sặc sỡ có thể thấy ở hầu hết các nhà thờ Công giáo ở khu vực lân cận. Hai bên nhà thờ là những ô cửa kính với những ô trụ ngang giúp lấy ánh sáng tự nhiên vào bên trong nhiều nhất. Tất cả các chi tiết kết hợp hài hòa tạo nên vẻ đẹp trang nghiêm, lung linh.
-
Màu hồng rực rỡ và được chế tác theo phong cách kiến trúc Romania, nhà thờ Tân Định, hay còn gọi là nhà thờ Thánh Tâm Chúa Jesus. Được xây dựng năm 1876 trong thời kỳ thuộc địa của Pháp. Khi Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, nó đã tồn tại qua những giai đoạn đầy biến động trong quá khứ của Việt Nam. Nhà thờ được xem là lớn nhất nhì TP.HCM, hai tháp chuông nâng chiều cao của nhà thờ lên khoảng 60 mét. Tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng, Quận 3, nhà thờ thuộc Tổng giáo phận Công giáo.
Nhà thờ Tân Định được coi là một trong những nhà thờ có kiến trúc đẹp nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh với sự kết hợp của thiết kế Gothic, Roman và Baroque. Có thể dễ dàng nhận ra nó với màu sơn hồng sống động, nổi bật bởi các chi tiết màu trắng tô điểm cho ngoại thất được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1957.
Lịch sử Nhà thờ Tân Định được bắt nguồn từ năm 1874, khi một phái đoàn Công giáo được thành lập ở đây dưới quyền của linh mục Donatien Éveillard, người đã giám sát việc xây dựng nhà thờ đầu tiên và được khánh thành vào tháng 12 năm 1876. Linh mục Éveillard cũng mời các Nữ tu Saint-Paul de Chartres thiết lập một trại trẻ mồ côi và trường nội trú cạnh nhà thờ. Sainte Enfance de Tan-Dinh, hay École de Tan-Dinh, mở cửa năm 1877 và đến đầu những năm 1880, có khoảng 300 trẻ em. Có lẽ thành tựu lớn nhất của linh mục Éveillard là việc thành lập tại Tân Định một nhà xuất bản tôn giáo được gọi là Imprimerie de la Mission, nơi ông đã đào tạo những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn từ Sainte Enfance de Tan-Dinh để kinh doanh xuất bản. Đến đầu những năm 1890, nhà thờ cùng các tòa nhà trường học ban đầu không còn phù hợp với mục đích sử dụng, vì vậy người kế vị của linh mục Éveillard, là linh mục Louis-Eugène Louvet (1838-1900), đã tổ chức xổ số để gây quỹ xây dựng lại.
Phần lớn diện tích của Nhà thờ Tân Định hiện nay có từ năm 1896-1898, khi việc tái thiết này được thực hiện với chi phí là 8.600 piastres. Kiến trúc bao gồm một gian giữa với mái vòm hình thùng cao (ngày nay được giấu bằng trần giả), ngăn cách bằng các mái vòm với lối đi và hành lang bên ngoài. Thiết kế cũng kết hợp một phòng trưng bày phía trên có mái vòm hoặc mái vòm nông cùng hai nhà nguyện hình chóp nhô ra từ hai bên của gian giữa, gần với lối vào. Các bức tượng Thánh và 14 Đài Thánh giá hiện đang trang trí cho các cột trụ bên ngoài lối đi có niên đại từ những năm 1890.
-
Nhà thờ Cha Tam (tên chính thức là Nhà thờ Thánh Francisco Xavier) là một nhà thờ cổ được xây dựng từ năm 1900 và hoàn thành năm 1902. Tọa lạc tại khu phố Tàu ở TP.HCM, đây có lẽ là nhà thờ duy nhất được trang trí giống các chùa chiền của người Hoa.
Nhà thờ Cha Tam là sự pha trộn hoàn hảo giữa kiến trúc Gothic (phương Tây) và kiến trúc Trung Hoa (phương Đông). Ngô Đình Diệm - cựu tổng thống Việt Nam Cộng hòa và anh trai Ngô Đình Nhu đã ẩn náu trong nhà của doanh nhân người Hoa trong một đêm, cầu nguyện trong nhà thờ Cha Tam vào ngày hôm sau trước khi họ bị lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự năm 1963.
Năm 1866, Đô đốc Lagrandiere lúc bấy giờ là Thống đốc Nam Kỳ đã đến thăm nhà thờ và thấy nó quá cổ, cũng như quá nhỏ. Người Hoa và người Việt theo đạo Thiên Chúa ở các vùng không có đủ chỗ để cầu nguyện hay đi lễ, số người theo đạo Thiên chúa giảm sút nên Đô đốc Lagrandiere đã ra lệnh cho Sở Công chính dùng tiền công để xây dựng một nhà thờ. Được sự ủng hộ của chính quyền, Đức cha Despierre đã cho Linh mục Pierre d 'Assou (hay Đàm A Tô, tức Tâm An Sử, thường gọi là Cha Tam trong tiếng Việt) giỏi tiếng Hoa đến Saigon China Town, xây dựng nhà thờ mới và phát triển.
Vì có một vài Cơ đốc nhân Trung Quốc, Cha Tam đã yêu cầu thêm những người Hoa không phải là Cơ đốc nhân quyên góp. Không có đủ tiền để xây dựng nhà thờ. Ông đã đến gặp các vị Trụ trì, Sư thầy của 32 Chùa và kêu gọi họ ủng hộ. Ông đã thành công và nhận đủ tiền để xây dựng nhà thờ mới cùng trang bị cho nó.
Ngày 3 tháng 12 năm 1900, cũng là ngày lễ kính thánh Francisco Xavier, Giám mục Giáo phận Sài Gòn Mossard đã đến thực hiện nghi thức đặt viên đá đầu tiên của nhà thờ. Do đó nhà thờ đã được đặt theo tên của Thánh Francisco Xavier. Sau hai năm, vào ngày 10 tháng 1 năm 1902, lễ khai mạc được tổ chức trọng thể, do Linh mục Pierre d 'Assou (thường gọi là Cha Tam) quản lý việc xây dựng nhà thờ và cũng là Cha sở đầu tiên nên mọi người thường gọi là nhà thờ là Nhà thờ Cha Tam. Sau đó, Cha Tam còn gây dựng nhà trẻ, trại trẻ mồ côi, xây nhà cho thuê. Năm 1934, Cha Tam mất và được an táng ngay bên vách, gần cổng nhà thờ. Năm 1990, tháp chuông của nhà thờ được trùng tu và làm mới bàn thờ Chúa Jesus.
Nhà thờ Cha Tam đã trùng tu nhiều lần. Ngày 02/01/2000, Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita tổ chức khánh thành ngôi nhà họp 3 tầng gồm 8 phòng học và hội trường với sức chứa 400 người.
Cha phụ tá Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng tự nghiên cứu thiết kế Nhà thờ Cha Tam. Nhìn chung, nhà thờ được thiết kế và xây dựng theo phong cách Gothic. Nhà thờ Cha Tam trông giống như những nhà thờ cổ của Châu Âu, nhưng nó cũng được lấy cảm hứng từ kiến trúc truyền thống của Trung Quốc. Tên của nhà thờ được viết bằng tiếng Trung Quốc và có rất nhiều câu đối và câu nói tiếng Hoa xung quanh, đặc biệt là trên cổng chính. Mái đình lợp ngói âm dương, trang trí hình hai con cá chép. Trên đỉnh thờ có trang trí hoa sen. Bốn cây cột trong gian thờ chính được sơn màu đỏ, điều không có ở các nhà thờ Thiên Chúa giáo.
-
Được biết đến rộng rãi là một trong những nhà thờ đẹp nhất thành phố. Nhà thờ Huyện Sỹ ở quận 1 được xây dựng năm 1902 - 1905 trên góc đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi) và đường Frère Guilleraut (nay là đường Tôn Thất Tùng). Thiết kế bởi Cha Charles Boutier (1845-1927), một kiến trúc sư có công lao đáng kể, người trước đây đã thiết kế Nhà thờ Thủ Đức và thiết kế lại khu phức hợp École de Sainte-Enfance của các Nữ tu Saint Paul de Chartres sau khi các tòa nhà bằng gỗ ban đầu của bị mối mọt phá hoại.
Nhà thờ đã được xây dựng qua sự giúp đỡ của Huyện Sỹ (1841-1900, tên thật là Philippe Lê Phát Ðạt), theo dân gian thế kỷ 19 có câu nói là “nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa” - vì họ từng là những người giàu nhất miền nam. Huyện Sỹ cũng tài trợ xây dựng các nhà thờ ở Chí Hoà và Thủ Đức. Trong khi con trai ông - Denis Lê Phát An, sau đó đã xây dựng nhà thờ Byzantine đặc biệt ở Hạnh Thông Tây.
Sinh ra tại Cầu Kho (Sài Gòn) trong một gia đình Công giáo từ Tân An (Long An), Huyện Sỹ được gửi sang Pinang (Malaysia) để học linh mục, tại đây, ông học được tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Trung và chữ Quốc ngữ (tiếng Việt được viết bằng tiếng La Mã). Sau khi trở về Sài Gòn, chính quyền Pháp bổ nhiệm ông làm thông ngôn viên của chính phủ và vào năm 1880, ông vinh dự hiếm hoi được làm thành viên của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ, nhờ vậy ông có được những vùng đất rộng lớn mà từ đó, ông đã làm nên cơ nghiệp của mình.
Sự nổi lên ngoạn mục của Huyện Sỹ đến nỗi cháu gái của ông, Maria-Therese Nguyễn Hữu Thị Lan, sau này trở thành Hoàng hậu Nam Phương, vợ cả và chính của vua Bảo Đại. Cùng với vợ là Huỳnh Thị Tài (1845-1920), Huyện Sỹ đã hiến một phần bảy cơ nghiệp của gia đình để xây dựng nhà thờ và cũng góp phần đất hiện có. Đôi khi còn được gọi là Nhà thờ Chợ Đũi (vì nó nằm ở giáo xứ Chợ Đũi). Nhà thờ Huyện Sỹ là nơi thờ Thánh Philip.
Ngay trước nhà thờ là tượng Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (Lê Văn Bôi, 1813-1847), một linh mục và thương nhân Việt Nam từ tỉnh Biên Hòa bị bắt và bị xử trảm tại khu vực Chợ Đũi theo lệnh của nhà Nguyễn. Ông được Giáo hoàng Leo XIII phong chân phước vào năm 1900 và một lễ hội tưởng nhớ được tổ chức tại nhà thờ hàng năm vào ngày 11 tháng 5, ngày ông bị hành quyết. Khuôn viên cũng có nhiều điện thờ khác, bao gồm tượng Thánh Joseph và Núi Đức Mẹ, được xây dựng năm 1960. Một Nhà nguyện yên nghỉ gần đây đã được thêm vào.
Bản thân nhà thờ đã được tân trang lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 2007-2009. Nó có chiều dài 40m, rộng 18m, được xây bằng gạch với các cột trụ và trang trí bằng đá granit Biên Hòa. Phía trên tiền đình là tháp chuông cao 57m. Một bức tượng của St Philip đứng ở lối vào chính.
Thiết kế của nhà thờ theo phong cách Gothic với các yếu tố trang trí theo phong cách Romanesque và bao gồm một gian giữa hình vòm với các lối đi hình vòm, được trang trí bằng màu xanh lá cây và trắng. Các cửa sổ được trang trí bằng hình ảnh các câu chuyện trong Kinh thánh bằng kính màu của Ý. Dọc hai bên tường là tượng các thánh trong Kinh thánh và Việt Nam cùng 14 Đàng Thánh giá. Ở hai bên của transept là các nhà nguyện nhỏ dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Joseph.Có bàn thờ cao bằng đá cẩm thạch được trang trí lộng lẫy, đặt trên một bệ mở và có tác phẩm mạ vàng trang trí công phu và các bức phù điêu chạm khắc tinh xảo về các cảnh trong Kinh thánh, bao gồm Bữa ăn tối cuối cùng và Đức Mẹ Maria được Thiên thần Gabriel viếng thăm.
Huyện Sỹ mất năm 1900 trước khi nhà thờ hoàn thành. Khi vợ ông Huỳnh Thị Tài qua đời năm 1920, ông được cải táng cùng với vợ trong nhà nguyện tưởng niệm hình trục ngay phía sau tượng đài. Được chạm khắc công phu từ đá cẩm thạch tốt nhất, các ngôi mộ có hình nộm đủ chiều dài của cặp vợ chồng. Tượng bán thân của Huyện Sỹ và Huỳnh Thị Tài cũng được lắp trên tường.
Tháp chuông có 4 quả chuông được đúc ở Pháp năm 1905. Hiện chưa rõ người tặng 2 quả chuông nhỏ hơn (đường kính 0,95m).Tuy nhiên, hai quả chuông lớn nhất (đường kính 1,05m) đã được một trong những người con trai của Huyện Sỹ là Jean Baptiste Lê Phát Thanh và vợ là Anna Đỗ Thị Thảo trao tặng cho nhà thờ. Để tôn vinh những đóng góp của họ cho Nhà thờ Huyện Sỹ, tượng bán thân của họ cũng được trưng bày trong nhà nguyện tưởng niệm Huyện Sỹ phía sau tượng đài.
-
Nhà thờ Kỳ Đồng (Tên khác: Dòng Chúa Cứu Thế, Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp). Được xây dựng từ năm 1949 và hoàn thành năm 1952. Công trình gây ấn tượng với những khối nhà tam giác, vòm cửa hình bán nguyệt, đặc biệt là tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - vị Thánh bổn mạng của nhà thờ. Bên trong tuy đơn giản nhưng vẫn toát lên vẻ trang nghiêm. Khuôn viên có hang đá và tiểu cảnh của thánh Alphonso, người thành lập Dòng Chúa Cứu Thế Chí Thánh. Nơi đây được cho là một nơi yên bình và linh thiêng.
Hội Thánh Chúa Cứu Thế Thế Giới đến Việt Nam năm 1925 và Hội Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn được thành lập năm 1933. Nhiệm vụ của Hội là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, mở các Tuần lễ Hạnh phúc. Ngôi nhà đầu tiên được chọn làm tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Chí Thánh là một tòa nhà ở số 163 đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng), gần nhà thờ Tân Định.
Nó được tặng bởi một người phụ nữ đạo đức. Năm 1937, Nhà dòng mua một khu đất rộng 2 hecta ở quận 3 đã được ngân hàng Đông Dương thanh lý để xây dựng tu viện mới. Và được xây dựng từ năm 1938, đến năm 1940 thì hoàn thành, đi vào hoạt động. Sau đó, đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được thành lập bên cạnh Tu viện. Vì lượng người đến với Đức Mẹ ngày càng đông nên các linh mục đã nghĩ đến việc xây dựng một nhà thờ mới khang trang hơn. Nhà thờ mới (Nhà thờ tồn tại cho đến ngày nay) được xây dựng năm 1949 và khánh thành ngày 3 tháng 8 năm 1952. Linh mục Beliemare (1946 - 1953) là người đã khởi công xây dựng và khánh thành Nhà thờ này. Chi phí của Tòa nhà là 5.000.000 (năm triệu) piastre Đông Dương thuộc Pháp.
Sau 30 năm tại Sài Gòn, năm 1963, Nhà thờ Kỳ Đồng - Dòng Chúa Cứu Thế thành lập Giáo xứ với tên gọi là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và tổ chức thành Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được cho là một Giáo xứ sau so với các Giáo xứ khác trong Giáo phận Sài Gòn.
-
Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d'Arc thường gọi là Nhà thờ Ngã Sáu- một nhà thờ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà thờ được xây từ năm 1922 và hoàn thành vào tháng 5 năm 1928, mang tên Thánh Jeanne d'Arc với phong cách Kiến trúc Roman.
Trước năm 1865, giáo dân gốc Hoa ở Sài Gòn còn thưa thớt, chưa có nhà thờ riêng. Đến năm 1865, dân gốc Hoa trở nên đông đúc, linh mục Philippe từ Trung Quốc sang Chợ Lớn đã xây một ngôi thánh đường tại đường Phùng Hưng. Nhà thờ mang tên Tổng Lãnh Thiên thần Micae.
Năm 1919, linh mục Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng về cai quản nhà thờ Micae. Vì nhà thờ đã xuống cấp và hư hỏng nặng, ông quyết định chọn một địa điểm khác rộng rãi hơn để cất một ngôi thánh đường mới với tên gọi Jeanne d'Arc. Sau này khi nghĩa địa được giải tỏa, ba con đường Nguyễn Tri Phương, Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Thanh đan chéo nhau vây quanh nhà thờ như một bông hoa sáu cánh, cho nên người dân thường gọi là "nhà thờ Ngã Sáu".
Năm 1989, linh mục Antôn Huỳnh Thủ Hơn về kế nhiệm, ông quyết định mang pho tượng lên đặt ở cung thánh, cho sơn màu đỏ nơi khắc ngọn lửa cháy dưới chân thánh Jeanne d'Arc.
Đến năm 2005, linh mục Philipphê Trần Tấn Bình ở Tây Ninh đến thăm nhà thờ và ngỏ ý muốn tặng một pho tượng mới về thánh Jeanne d'Arc. Pho tượng nữ thánh Jeanne d'Arc mới này mặc áo giáp, một tay cầm cờ, một tay cầm gươm. Linh mục Hơn đã quyết định đặt pho tượng mới ở cung thánh và đưa pho tượng cũ về đặt tại nhà xứ.Nhà thờ Ngã Sáu có tháp chuông lớn ngay chính giữa, hai bên hai tháp nhỏ bên trong trống không, cả ba tháp đều có mái ngói nhọn sơn màu xanh chĩa lên trời theo hình mũi tên. Chân tháp nơi cửa chính vào được ốp đá đen với những gờ răng cưa lớn ở góc tạo cảm giác rất mạnh mẽ. Mặt chính cân bằng giữa phương vị thẳng đứng của cột và cửa sổ cao là lam thông gió phương vị ngang.
Nội thất sử dụng một gam vàng nhạt, màu sắc hài hòa giữa những chi tiết, hoa văn trang trí, tạo ra một độ sáng và thoáng cho công trình. Cung thánh được đặt ở vị trí cuối của không gian chính, trên một bục cao trên cùng là bàn lễ, bàn thờ Chúa; hai bên có tượng Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse trên hai chiếc cột. -
Giáo xứ Đa Minh- Ba chuông là nhà thờ Công giáo nổi bật với những ô cửa sổ màu xanh lá và phần mái mô phỏng theo kiến trúc chùa. Giáo xứ Đa Minh do các Linh mục sáng lập từ năm 1957. Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông được xây dựng theo phong cách Á Đông và mang đậm nét văn hóa Việt. Nó vừa mang dáng dấp của một ngôi đình của làng xã Việt Nam: hình vuông, mái cong; vừa xây theo lối kiến trúc hiện đại: bê tông cốt sắt, tường gạch ốp đá.
Giáo xứ Đa Minh là trụ sở của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, nơi diễn ra nhiều nghi lễ chính thức của toàn Dòng. Số người đến tham dự phụng vụ tại đây đông gấp nhiều lần so với số giáo dân trong xứ. Chính vì thế trong các thánh lễ Chúa Nhật và các ngày lễ lớn, nhiều giáo dân phải tham dự thánh lễ từ sân nhà thờ, thậm chí có khi còn phải đứng cả ra ngoài lề đường.
Ấn tượng của Giáo xứ Đa Minh là tháp chuông ba khía màu đỏ sẫm, cao 14 mét, được xây tách biệt về phía cổng nhà thờ. Dáng tháp chuông thon thả, phía trên nở ra như một bông huệ, khoe cho mọi người thấy ba quả chuông. Phía trên cùng có quả địa cầu cách điệu. Có lẽ chính vì thế mà nhà thờ được dân gian đặt cho một tên gọi mới là “Nhà thờ Ba Chuông”.
Bình diện vuông, theo tư duy Việt cổ, họ quan niệm trái đất vuông, được bốn phương neo giữ. Bên trong Thánh đường thể hiện rõ bản sắc dân tộc vào trong kiến trúc, nghệ thuật thánh bằng việc thiết kế gian cung thánh và các bài trí bên trong lòng của nhà thờ.
Cổng Tam quan trong kiến trúc nhà thờ vừa mang ý nghĩa bản địa vừa mang ý nghĩa tôn giáo, tượng trưng cho ba nhân đức căn bản của đạo Công giáo: đức tin, đức cậy, đức mến, tạo nên sự thánh thiện, thanh cao của công trình nhà Chúa. Tháp chuông ở Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông có đủ ba quả chuông đồng gồm ba tầng mái. Mỗi góc mái là một đầu đao hình đầu rồng quy hướng về Thánh giá.
Tàu đao được tạo thành do hai mái bên gặp nhau tạo thành đường bờ giải gẫy khúc, lượn cong nhè nhẹ. Đầu đao có thể là hình đầu rồng, đầu chim phụng, chim câu hoặc các hoa văn nhằm tạo tính chất linh liêng cho các công trình kiến trúc. Thánh đường Đa Minh – Ba Chuông chọn hình đầu Rồng, vốn là một linh vật trong tứ linh.
-
Nhà thờ Giáo xứ Hạnh Thông Tây là nhà thờ Công giáo La Mã xây theo phong cách Byzantine vào năm 1921, có tháp chuông và nhiều tranh tường lộng lẫy. Nhà thờ được xây dựng trên diện tích 560m vuông, chiều cao là 20m. Ban đầu tháp chuông có hình tháp nhọn, nhưng vì đây là vùng có nhiều máy bay quân sự bay qua nên cơ sở Hàng không Đông Dương đã xin Đức Giám Mục J. Cassaigne cho hạ thấp tháp chuông nhà thờ Hạnh Thông Tây theo văn thư đề ngày 29/10/1953. Từ đó, tháp chuông có hình vuông như hiện nay.
Trước đó, Xứ đạo Hạnh Thông Tây được thành lập năm 1861 bởi Linh mục Puginier. Ban đầu chỉ có gia đình ông Đốc phủ Ca và một vài gia đình quyền thế, sau đó khoảng 400 người ngoại giáo có của cải trong làng đến xin học đạo. Một số người khá giả đã hiến tặng ngôi đình thờ làng của họ để dựng ngôi nhà nguyện- giáo đường đầu tiên.
Bên trong nhà thờ Hạnh Thông Tây được trang trí bằng đá và gỗ quí. Trên cung thánh, có ba bàn thờ bằng cẩm thạch. Mặt bàn thờ là một khối cẩm thạch màu trắng, chạm trổ chung quanh bằng cẩm thạch vàng. Vì vậy, khi được chiếu sáng, chúng sẽ ánh lên một màu vàng óng. Trần nhà thờ đúc hình vòm cung, phết nhũ vàng. Trên cùng là hình ảnh Chúa Giêsu trên Thánh Giá, xung quanh có Đức Mẹ, Thánh Gioan, các phụ nữ và lính canh.
Ngày trước, việc an táng các vị ân nhân trong nhà thờ hàm ý cộng đoàn biết ơn vị ấy nên không ai ngạc nhiên khi thấy bên cánh trái nhà thờ là mộ phần Ông Denis Lê Phát An, người dâng cúng đất, toàn bộ chi phí xây dựng và đồ dùng trong Thánh đường. (ông Denis Lê Phát An là con ông Lê Phát Sĩ, tức Huyện Sĩ, là cháu chắt của Thánh tử đạo Matthêu Lê Văn Gẫm). Bên cánh phải là mộ phần của người vợ: Bà Anna Trần Thị Thơ. Cả hai mộ đều làm bằng đá cẩm thạch Ý, điêu khắc rất kỳ công. -
Fatima Bình Triệu là một nhà thờ Công giáo thuộc Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, gần cầu Bình Triệu. Đây là một trong những nơi hành hương Đức Mẹ Maria nên còn được gọi là "Trung tâm hành hương Fatima Bình Triệu"
Theo truyền thuyết, vào tháng Hoa năm 1962, phong trào Quốc tế Tông đồ Fatima tổ chức cung nghinh tượng Đức Mẹ Fatima đi khắp mọi miền đất nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong cuộc cung nghinh tượng Mẹ, đến vùng đất hoang vu gần cầu Bình Triệu, xe chở tượng Đức Mẹ bỗng chết máy. Các thợ giỏi được huy động đến sửa; sau hai tiếng đồng hồ coi máy, các toán sửa chữa đều bó tay, và nói: xe không hư gì cả, nhưng tại sao không chạy thì chúng tôi không biết. Cha Phaolô Võ Văn Bộ, người tổ chức cuộc rước kiệu xin mọi người lần chuỗi cầu nguyện để xin ý Mẹ. Sau chuỗi 50 kinh, xe nổ máy được. Ngài cầu nguyện: nếu Mẹ muốn, chúng con sẽ xây dựng một Trung tâm Hành hương Fatima tại đây kính dâng Mẹ. Xin Mẹ giúp chúng con thực hiện ý muốn của Mẹ. Sau đó, cha Bộ dò tìm xem ai là chủ khu đất này và mua miếng đất với sự giúp đỡ của nhiều người.
Tượng đài Đức Mẹ Fatima cao 3m, ngày 13/10 hằng năm, hàng ngàn người đến đây kính viếng Mẹ, tâm sự với Mẹ, khẩn cầu cùng Mẹ. Sau khi cha Phaolô xuất ngoại du học và trở về, ngài tiếp tục xây cất: 3 nhà lầu, một nhà trệt, nhà nguyện, giảng đường, phòng ăn, nhà bếp.
Và sau đó tiếp tục xây dựng các phần còn lại của nhà thờ: 14 Chặng đàng Thương khó Chúa Giêsu, được xây dựng hai bên con đường dẫn vào trung tâm; Đền Đức mẹ Fatima được khởi công, và được xây dựng trong điều kiện thuận lợi: giáo dân khắp nơi đến kính viếng đều hưởng ứng nhiệt tình.
Ngày 13/10/1970, Đức TGM đến làm phép khánh thành Đền Đức Mẹ và dâng Thánh lễ Tạ ơn, cầu bình an cho các ân nhân đã giúp công giúp của để hoàn thành công trình lớn lao này. Sau đó, nhà thờ tiếp tục xây dựng 6 căn nhà chính và nhà sinh hoạt phụ cùng nhà bếp cho những người giúp việc để chăm sóc các linh mục già yếu đến tuổi về hưu.
Hằng tháng số người đến xin tĩnh tâm quá đông, nhà thờ quyết định xây dựng ngôi nhà tĩnh tâm thứ hai lớn hơn, cùng khánh thành Thánh đường Chúa Kitô và nhà tĩnh tâm thứ hai vào ngày 6/1/1973. -
Theo sử chép: “Giáo xứ Thị Nghè là một ngôi nhà thờ được xây cất đầu tiên bằng cây ván thô sơ nằm trên cuộc đất rộng lớn trên 3000 thước vuông, xung quanh toàn là ruộng, sình đầy nước đọng quanh năm”.
Thị Nghè không chỉ là một giáo xứ, mà sớm trở thành trung tâm của một trong 12 giáo hạt của giáo phận Tây Đàng Trong và là mãnh đất thuận lợi để mở chủng viện. Năm 1850, Đức Cha Ngãi (Lefèbvre) đã lập nhà trường tạm tại Họ Thị Nghè. Trong số các linh mục lui tới họ đạo trong thời gian này, có Thánh Phaolo Lê Văn Lộc để lại dấu ấn đậm nét khi làm giám đốc chủng viện Thị Nghè. Khi tình hình căng thẳng, Đức Cha ra lệnh giải tán chủng viện, “cha Lộc vẫn cố nán lại Saigon để gần gũi, hướng dẫn các chủng sinh của mình. Dù khó khăn, cha vẫn cố tiếp tế cho các chủng sinh bị lưu lạc.
Thánh Phêrô Đoàn Công Quý, sau khi thụ phong linh mục, năm 1858 đã thi hành mục vụ tại các giáo xứ trong đó có Gia Định- được nói đến trong tiểu sử Thánh Quí chỉ một địa bàn rộng lớn, bao gồm cả khu vực Thị Nghè. Thánh Andre Nguyễn Kim Thông cũng đã đi qua Thị Nghè.
Ngoài ra, lịch sử giáo hội Việt Nam ghi nhận: “Dưới triều cấm cách nghiệt ngã của Minh Mạng, Thị Nghè cũng là địa bàn thuận lợi của các cơ sở từ thiện xã hội”. Sau thời cấm đạo, từ năm 1859, Giáo xứ Thị Nghè tiếp tục được Giám Mục Lefèbvre chọn làm nơi tái lập chủng viện để đào tạo linh mục.
Trước năm 1854, họ đạo Thị Nghè được các Đức Cha, các linh mục thừa sai, các cha sở, các cha Việt Nam từ họ đạo Chợ Quán đến chăm sóc và làm mục vụ. Từ năm 1854, các cha sở của giáo xứ đóng góp nhiều công sức xây dựng và phát triển họ đạo với lòng nhiệt tình truyền giáo. Các ngài đã hy sinh bản thân, gánh chịu bệnh tật, vượt qua những khó khăn nội bộ trong việc điều hành họ đạo, khôn ngoan giải quyết những vấn đề trong giao tiếp với bên ngoài để phát triển họ đạo một cách toàn diện.