Top 10 Người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu nhất trong lịch sử
Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, đó đều là những đức tính tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ... xem thêm...Việt Nam đã có biết bao tấm gương phụ nữ yêu nước được sử sách lưu danh. Từ thời Bà Trưng bà Triệu cho đến thời đại Hồ Chí Minh đã có hàng triệu triệu phụ nữ can trường hy sinh vì nền độc lập của nước nhà. Sau đây là những con người tiêu biểu nhất.
-
Danh hiệu này dành cho hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Họ trở thành những nữ hoàng đầu tiên, cai quản quốc gia, dân tộc, sau khi đất nước được giải phóng, hồi đầu thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Sử cũ đều chép Hai Bà là dòng dõi lạc tướng (người đứng đầu bộ lạc) Mê Linh (miền đất rộng, giữa Ba Vì và Tam Đảo) thời Hùng Vương. Truyền thuyết nói Hai Bà là con gái bà Man Thiện, cũng là một phụ nữ đảm lược, quê hương ở vùng Ba Vì. Ngọc phả ở các làng Hạ Lôi và Hát Môn - những nơi có đền thờ chính của Hai Bà - đều chép Hai Bà là chị em sinh đôi và sinh vào ngày mồng một tháng tám năm Giáp Tuất (năm 14 sau công nguyên).
Các sử cũ cũng chép rằng Trưng Trắc có chồng là Thi Sách, dòng dõi lạc tướng Chu Diên (miền đất dọc sông Đáy). Đây là kết quả của một cuộc "hôn nhân chính trị", nhân đấy mà liên kết được lực lượng của hai miền đất quan trọng nhất của non sông thời bấy giờ. Lực lượng liên kết ấy là hạt nhân của một cuộc khởi nghĩa đồng loạt, rộng lớn, mãnh liệt, nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên) nhân việc Thái thú (quan cai trị nhà Hán) ở Giao Chỉ (miền đồng bằng Bắc Bộ) là Tô Định giết hại Thi Sách.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi và được tôn làm vua, đứng đầu đất nước độc lập trong thời gian ba năm. Sau đó, nhà Hán sai lão danh tướng Phục Ba tướng quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tái xâm lược, Hai Bà Trưng đã dũng cảm đương đầu cùng quân giặc, tổ chức kháng chiến đánh những trận lớn từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cấm Khê và cuối cùng đã hy sinh anh dũng vào mùa hè năm Quý Mão (năm 43 sau công nguyên), để lại tấm gương oanh liệt nghìn thu. Hiện nay ở nhiều địa phương trong cả nước có đền thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà.
-
Lý Chiêu Hoàng còn gọi là Lý Phế hậu hay Chiêu Thánh Hoàng hậu gọi tắt là Chiêu Hoàng, là hoàng đế thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ vương Trưng Trắc. Đặc biệt hơn, bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, đang nắm quyền lực trong triều, cũng là chú họ bên ngoại của bà.
Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.
Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm. Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi ca nhạc họa. -
Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai: Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời.
Nhà thơ nữ tài hoa, độc đáo và hài hước nhất là Hồ Xuân Hương. Bà sống vào cuối thời Hậu Lê, là tác giả của hơn 50 bài thơ vừa trữ tình, vừa sắc sảo, mới lạ, lại đa nghĩa và mang tính hài hước, châm biếm sâu cay như: "Bánh trôi nước", "Tự tình", "Lấy chồng chung",... Bà được mệnh danh là "Bà chúa thơ Nôm".
Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được... Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử ...& Đại
-
Trong chặng đường đầu của báo chí quốc ngữ Việt Nam, phụ nữ tham gia chưa nhiều nhưng có vai trò không nhỏ. Lịch sử từng trang trọng ghi nhận tên tuổi, sự nghiệp một nữ chủ bút nổi tiếng - Nhà thơ Sương Nguyệt Anh. Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Ngọc Khuê (có nơi ghi là Nguyễn Xuân Khuê hay Nguyễn Xuân Hạnh ), sinh ngày 8/3/1864 tại Ba Tri (Bến Tre). Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và được sinh ra vào thời kỳ nhà thơ về Bến Tre nương mình “cho tròn phận tóc da” trong những ngày chạy giặc.
Lớn lên giữa cảnh đất nước đang rên xiết dưới gót quân thù; bên người cha - nhà thơ, chí sĩ tài năng, giàu khí tiết, suốt đời cùng ngọn bút không mệt mỏi đấu tranh vì nhân đạo, vì tự do và người mẹ hiền thục, tảo tần, bà sớm thừa hưởng được chí cha, đức mẹ, có bản lĩnh hơn người và luôn nuôi ước vọng tạo nên “một sự nghiệp”. Từ nhỏ đã nổi danh tài sắc nhưng bước vào đời, bà không gặp may mắn. Lấy chồng năm 24 tuổi, được mấy năm thì chồng chết, bà ở vậy nuôi con gái. Lúc này cha mẹ đều đã qua đời, cảnh ngộ cô đơn lại càng thêm neo đơn, người góa phụ Xuân Khuê điểm thêm một chữ “Sương” trước tên hiệu “Nguyệt Anh” là vì thế!...
Sương Nguyệt Anh đã toan an bài với số phận, không màng tới thế sự, nhưng tài năng, nhiệt huyết của bản thân cùng cảnh đời đau thương mà sôi động lại chẳng thể làm bà dửng dưng. Những năm đầu thế kỷ XX, khi Phan Bội Châu phát động phong trào “Đông du” bà nhiệt tình hưởng ứng, bán cả đất vườn lấy tiền gửi giúp du học sinh. Phong trào bị đàn áp rồi thất bại, bà vẫn không nản lòng, tiếp tục tìm mọi cách góp sức mình vào công cuộc cứu nước... Năm 1917, được một nhóm chí sĩ ái quốc mời ra làm chủ bút tờ báo Nữ giới chung (Tiếng chuông của nữ giới) - tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, bà vui vẻ nhận lời ngay. Đến tháng 7/1918, tờ Nữ giới chung phải đình bản, bà lại về Ba Tri, theo gương cha ngày trước - dạy học, bốc thuốc và sáng tác thơ văn cho tới ngày tạ thế (9/1/1922).
Bằng tất cả tài năng, tâm huyết, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp chung, Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt Nam hình ảnh đẹp về một nữ chủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong cuộc sống đấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ nước nhà. Ngày nay, tên bà được đặt cho nhiều đường phố, trường học, hội bút, câu lạc bộ... với niềm trân trọng, tự hào sâu xa. Nhà thơ Nguyễn Liên Phong (tác giả Điếu cổ hạ kim thi tập) đã dành những lời thật xứng đáng khi viết về Sương Nguyệt Anh:
Gương tỏ đời nay trang tiết phụ,
Lâu đài tiếng tốt tạc non sông. -
Nguyễn Thị Chiên (1930 – 2016) sinh tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bà là Trung tá quân đội nhân dân Việt Nam và Nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1946 đến năm 1952, Nguyễn Thị Chiên tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật (nay là thị trấn Thanh Nê) đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề... Bà đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt 15 quân địch. Tháng 4 năm 1950, trong khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà bị quân địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi. Nhưng bà vẫn trung thành, không khai báo.
Tháng 10 năm 1951, trong một trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà đã bắn bị thương 1 quân địch, bắt sống 6 lính địch, thu được 4 súng. Tháng 12 năm 1951, khi quân đội Pháp lùng sục vào làng, Bà đã chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 lính Pháp. Năm 1952, Nguyễn Thị Chiên được bầu là chiến sĩ thi đua toàn quốc. Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Chiên về công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô. Bà được phong quân hàm trung tá năm vào năm 1984. Nguyễn Thị Chiên qua đời vào lúc 8h20 phút, sáng ngày 1/6/2016, tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (Long Biên, Hà Nội), hưởng thọ 87 tuổi. -
Võ Thị Sáu (1037 – 1953), quê ở Bà Rịa, chị được gọi là “ Người con gái đất đỏ”. Khi giặc Pháp tràn vào quê hương, Võ Thị Sáu mới 12 tuổi, đã ném lựu đạn giết chết ba tên chỉ huy Pháp. Chị nổi tiếng về tình báo, biệt động và giao liên đặc biệt. Ám sát hụt tên việt gian Đốc phủ Tòng, Võ Thị Sáu bị Pháp bắt năm 15 tuổi.
Ở trong tù, chị vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 12 năm 1952, Pháp đem chị ra Côn Đảo giam ở nhà lao “Đá trắng”. Vốn thích múa hát từ nhỏ, khám tử hình không làm chị thôi hát. Khi giặc xử bắn chị, đưa một cố đạo đến rửa tội, chị mắng: “Tao là người yêu nước, tao không có tội, chỉ chúng mày là quân cướp nước tao, giết dân tao mới là kẻ có tội.”
Trước khi chết, chị hô vang: “Việt Nam muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”. Võ Thị Sáu hi sinh khi chưa đầy 17 tuổi. Năm 1993, Nhà nước đã truy tặng chị danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Huân chương chiến công hạng Nhất.
-
Hoàng Xuân Sính (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1933) là một chính khách, nhà quản lý giáo dục, nhà toán học, nữ giáo sư, nhà giáo Nhân dân, nữ tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam. Bà là người làng Cót, Từ Liêm, Hà Nội (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy). Suốt thời niên thiếu gia đình bà sống tại nhà số 102 phố Hàng Bông, Hà Nội. Mẹ của bà mất sớm khi bà mới được 8 tuổi, cha của bà là ông Hoàng Thúc Tấn, sau đó đã tục huyền với một nữ doanh nhân về vải sợi. Ông và người vợ sau là những nhà tư sản dân tộc, là nhà tài trợ và hỗ trợ cơ sở vật chất cho báo Thanh Nghị, một tờ báo có quan điểm dân tộc tiến bộ thời bấy giờ. Trong nhiều tài liệu, bà thường được ghi chú là "cháu gái của giáo sư Hoàng Xuân Hãn". Tuy nhiên, đây chỉ là mối giao tiếp thân tình giữa hai người chứ không phải là quan hệ họ hàng.
Bà làm nghiên cứu sinh trong nước dưới sự hướng dẫn của nhà Toán học nổi tiếng người Pháp Alexander Grothendieck. Luận án Tiến sĩ Toán học của bà có nhan đề "Các Gr-phạm trù"[6] được bảo vệ tại Đại học Paris 7 vào năm 1975. Trước khi sang Paris bảo vệ luận án, bà đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình tại Đại hội Toán học Việt Nam năm 1971 ở Hà Nội và Đại hội Toán học thế giới năm 1974 được tổ chức ở Vancouver (Canada). Bà giảng dạy và viết giáo trình về đại số. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Paris, bà trở về Việt Nam giảng dạy toán học và biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông. Bà từng là chủ nhiệm bộ môn đại số, trưởng khoa Toán-Tin học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Bà là một trong những người sáng lập ra trường Đại học Thăng Long, trường đại học Tư thục đầu tiên ở Việt Nam (15/12/1988). Hiện nay bà đang là Chủ tịch Hội đồng quản trị của trường. Bà là thành viên Hội đồng xét tặng Giải thưởng khoa học Kovalevskaya ở Việt Nam. Nhiều lần bà được giao trọng trách là Trưởng Đoàn học sinh Việt Nam đi dự Olympic Toán Quốc tế. Bà cũng dành thời gian tham gia nhiều hoạt động xã hội đa dạng như Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VI (2004-?), Ủy viên Hội đồng chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Ủy viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia, Ủy viên Hồi đồng Từ điển Bách khoa Việt Nam. -
Bà tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 1 tháng 11 năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Theo trang web của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thì bà sinh ngày 01 tháng 11 (tức 30 tháng 9 âm lịch theo báo Đại đoàn kết). Cha bà là ông Nguyễn Huy Bình, người làng Mọc (Nhân Chính, Hà Nội), làm công chức hỏa xa ở Vinh, thường gọi là Hàn Bình. Mẹ là Đậu Thị Thư, quê Đức Tùng, Đức Thọ, Hà Tĩnh, làm nghề buôn bán nhỏ. Trước năm 1940, gia đình bà sống tại 132 phố Maréchal Foch (nay là phố Quang Trung), Vinh. Về sau, gia đình bà về sống ở quê mẹ là xã Đức Tùng, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1919, bà bắt đầu học chữ Quốc ngữ rồi vào trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Năm 1927, bà tham gia hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, sau đó được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ. Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư ký cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản. Theo nghiên cứu của học giả Sophie Quinn-Judge, tài liệu từ văn khố của Đệ Tam Quốc tế cho thấy Nguyễn Thị Minh Khai nhận mình là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm 1931 (sau này tại Moskva cuối năm 1934, bà cũng đã viết rằng mình đã có gia đình với "Lin", bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm đó). Tuy nhiên, Sophie Quinn-Judge cũng phát biểu rằng mình "không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không" vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại mật mã, và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là "thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường" nên khó mà biết rõ cách thức hoạt động của họ. Sophie Quinn-Judge cũng tìm ra một bức thư mà Nguyễn Thị Minh Khai viết năm 1933, trong đó bà khẳng định rằng mình không bị vướng bận bởi chuyện gia đình, và "người chồng" duy nhất của bà chính là sự nghiệp Cách mạng.
Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934, bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moskva cùng với Lê Hồng Phong. Theo các tiểu sử về bà ở Việt Nam thì bà thành hôn với Lê Hồng Phong vào năm 1935 tại Moskva, tuy nhiên theo bà Sophie Quinn-Judge thì không có những bằng chứng đương thời về cuộc hôn nhân này. Hai người sinh được một con gái là Lê Nguyễn Hồng Minh (sinh năm 1939). Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939 ở Sài Gòn. Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc.
Ngày 30 tháng 7 năm 1940, bà bị bắt (cùng với Ủy viên Trung ương Đảng Nguyễn Hữu Tiến - tác giả cờ đỏ sao vàng) ngay sau phiên họp của Xứ ủy Nam kỳ về phổ biến chủ trương khởi nghĩa và bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên ngoài và vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh. Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) ngày 28 tháng 8 năm 1941. -
Bà Nguyễn Thị Nhược Bích sinh năm 1830, quê làng An Phước, tỉnh Ninh Thuận (trước đây là Phan Rang), con thứ tư của Nguyễn Nhược Sơn (có tên gọi là Nguyễn Nhược San). Nguyễn Nhược Sơn là một nhân tài hiếm hoi của vùng Chiêm Thành, Ninh Thuận. Ông có tính tình khẳng khái, không chịu ràng buộc trong khuôn phép, gặp việc gì đáng làm là làm không cần suy nghĩ và cũng không sợ hậu quả xấu đến với mình. Bởi thế, trong quãng đời làm quan, ông không ít lần bị bãi chức. Cũng nhờ tài trí thông minh và sự phóng khoáng của người cha mà bà Nguyễn Thị Nhược Bích đã được ăn học và bộc lộ tài năng của mình. Bà đi theo cha làm quan nhiều nơi nhưng bất cứ ở nơi nào bà cũng được mọi người ca ngợi.
Năm 1848, bà được tiến cử vào cung cho Vua Tự Đức. Trong một buổi ngâm vịnh, Vua Tự Đức đề thơ Tào Mai (Hoa mai sớm nở) và bài hoạ của bà được vua khen tặng cho 20 nén bạc, đồng thời cho sung chức Thượng Nghi Viên Sư. Năm 1868, bà được Vua Tự Đức giao cho việc dạy học cho các hoàng tử - sau này là các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc. Trong cung đình với tài thơ văn của mình, bà đã dạy cho các hoàng tử những kiến thức về văn học, hán nôm, phép tắc lễ nghi nơi cung cấm... Vì thế, người ta gọi bà là Tiệp Dư Phu Tử. Với công lao đóng góp của bà cho triều đình, nhà Nguyễn đã lần lượt phong cho bà các chức: Tài nhân (1850), Mỹ nhân (1860), rồi chức Quý nhân. Tư duy của bà theo khuynh hướng chính thống nên bà đã phải chịu đựng sự chuyên chế của hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong thời kỳ “Tứ nguyệt tam vương” (bốn tháng mà thay đến ông ông vua).
Năm 1885, Kinh thành thất thủ, Vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương, kêu gọi quan dân chống Pháp, bà phải Hộ giá Tam cung (thân mẫu của hai bà Chánh phi và Thứ phi của Vua Tự Đức) chạy theo vua ra Quảng Trị. Đến Quảng Trị mới được vài hôm, Tam cung không chịu được cảnh khổ cực nên đã quay trở lại Khiêm lăng chịu sự quản chế của người Pháp. Trong thời gian bà ở bên cạnh Vua Tự Đức, bà đã theo dõi và nắm được tất cả những sự việc xảy ra trong Cung đình Huế từ sau ngày Vua Tự Đức băng hà (19/7/1883) cho đến ngày Kinh thành Huế thất thủ (5/7/1885). Với sự thông minh và hiểu biết của mình, bà đã viết nên tác phẩm Hạnh Thục Ca, gồm 1018 câu lục bát, chữ nôm. Tác phẩm nói về việc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta và ca ngợi công lao của Vua Tự Đức; việc lộng quyền của hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong viếc phế lập các vua: Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Hàm Nghi.
Lời thơ trong Hạnh Thục Ca có một âm điệu nhẹ nhàng, phảng phất một nỗi buồn man mác. Mặc dù nhìn nhận sự việc trong triều đình với nhãn quan của một bà hoàng trong cung cấm nhưng Hạnh Thục Ca vẫn được lịch sử Việt Nam đánh giá là nguồn sử liệu có ý nghĩa lịch sử và văn học quý giá. Không phải là một người thông minh, có tài thơ văn, có lòng yêu nước thì không ai có thể viết được tác phẩm ấy. Từ sau ngày Vua Tự Đức mất, việc biên soạn Sắc dụ của Lưỡng Tôn Cung (mẹ Vua Tự Đức và bà Trang Ý, vợ chính của Vua Tự Đức) đều do một tay bà soạn thảo. Đến đời Vua Thành Thái (1892) bà được phong chức Tam Phi Lễ Tần. Bà mất vào năm Duy Tân thứ ba (1909), thọ 79 tuổi. -
Sáng ngày 31/3/2016 đánh dấu một bước ngoặc lớn trong sự nghiệp cải cách, đổi mới của nước ta đồng thời là một dấu son trong sự nghiệp chính trị của đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Khi bà được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia thay ông Nguyễn Sinh Hùng. Trở thành nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và cũng là người đầu tiên thực hiện quy định tuyên thệ khi nhậm chức.
Phát biểu tại lễ tuyên thệ dưới lá cờ đỏ sao vàng, trước Quốc hội và đồng bào cử tri cả nước, tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã cảm ơn sự tín nhiệm của đại biểu Quốc hội. Tân Chủ tịch Quốc hội tuyên thệ: “Tôi xin tuyên thệ: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tôi nguyện nỗ lực rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó".
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân sinh năm 1954 tại Bến Tre, có bằng thạc sĩ Kinh tế. Bà là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng liên tục các khóa 9, 10, 11, 12; Ủy viên Bộ Chính trị khóa 11, 12; Đại biểu Quốc hội khóa 12, 13. Từng đảm nhiệm các vị trí Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bến Tre, Thứ trưởng Tài chính cùng nhiều chức vụ tại trung ương khác trước khi giữ được bổ nhiệm làm chủ tịch Quốc hội.
Dưới thời bà làm Chủ tịch Quốc hội, Quốc hội Việt Nam dự thảo 2 luật quan trọng là Dự thảo Luật Đặc khu Kinh tế và Luật An ninh mạng vào năm 2018. Tuy nhiên, trước làn sóng biểu tình phản đối Luật Đặc khu, ngày 11/6 bà kêu gọi người dân bình tĩnh, tin vào quyết định của Nhà nước. Cùng ngày hôm đó Quốc hội đã biểu quyết đồng ý hoãn thông qua dự án Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc và chỉ có Luật An ninh mạng là được thông qua.Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bà không tái cử Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII. Chiều 15 giờ 50 phút ngày 30 tháng 3 năm 2022, Quốc hội đã phê chuẩn việc miễn nhiệm chức danh Chủ tịch Quốc hội đối với bà bằng hình thức bỏ phiếu kín, sau đó bà được nghỉ hưu theo chế độ.
Vũ Thanh Hải 2017-10-21 15:41:38
Ở đây bạn chưa có phần bạn chưa am hiểu về lịch sử việt nam thì phải, Thứ nhất lý chiêu hoàng không có gì nổi tiếng về nhân cách và tài năng cả,lý chiêu hoàng lên ngôi khi còn nhỏ chưa làm gì có lợi cho tổ quốc cả,lên ngôi do sự sắp đặt của quan lại nhà trần và sau này phải nhường ngôi cho chồng. Thứ hai mà bạn không nhắc tới ở đây là bà triệu thị chinh người con gái thanh hóa.và bà nguyễn thị định đến giặc mỹ và ngụy quyền mỗi khi nói tới tên bà còn phải kiêng sợ