Top 10 Người phụ nữ Việt Nam dũng cảm và thông minh nhất

Đỗ Thị Mai Hiếu 1997 0 Báo lỗi

Từ xưa đến nay dù thời bình hay thời chiến, người phụ nữ Việt luôn mang đức tính trung hậu, đảm đang. Không những vậy họ còn tạo cho mình nét đẹp riêng đó là ... xem thêm...

  1. Hai Bà Trưng là ngọn cờ giải phóng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hai nữ tướng anh hùng đầu tiên đứng lên phất cờ khởi nghĩa. Hai Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em, con gái lạc tướng Mê Linh, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Quê hương của Hai Bà là trang Cổ Lai, nay là xã Mê Linh, thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.


    Do chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của nhà Hán, cùng nguyên nhân Thi Sách chồng Trưng Trắc bị thái thú Tô Định giết hại. Để trả nợ nước, thù nhà Hai Bà Trưng đã nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý 40 Công nguyên, nghĩa quân mau chóng làm chủ Mê Linh,rồi tiến xuống Cổ Loa và Luy Lâu. Cuộc khởi nghĩa mau chóng thắng lợi dưới sự lãnh đạo tài tình của hai vị nữ tướng.


    Đây được xem là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu Công nguyên. Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có công lao to lớn không chỉ Hai Bà mà còn sự góp sức của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội quân. Đó cũng là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN - 39 CN).

    Hai vị nữ tướng Hai Bà Trưng.
    Hai vị nữ tướng Hai Bà Trưng.
    Đên thờ Hai Bà Trưng ở xã Mê Linh- huyện Mê Linh- Thành phố Hà Nội
    Đên thờ Hai Bà Trưng ở xã Mê Linh- huyện Mê Linh- Thành phố Hà Nội

  2. Tiếp nối tinh thần yêu nước, thương dân, căm thù ách đô hộ tàn ác của Hai Bà Trưng, sau gần 2 thế kỷ, vùng đất Cửu Chân, Thanh Hóa năm nào, đã xuất hiện người phụ nữ anh hùng mang tên Triệu Thị Trinh với tuyên thệ sắt son: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!" ghi dấu trong lịch sử nước nhà.


    Không căm phận làm lẽ cho tên viên quan Đông Ngô cai trị tàn ác, Triệu Thị Trinh cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt đã bàn nhau khởi binh chống lại quân đô hộ. Từ hai căn cứ trên núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.

    Trong lúc thế trận đang sục sôi, không may, anh trai bà Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Với sự quyết liệt chống đô hộ, can đảm, dũng cảm, bà được tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc.


    Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra, tuy nhiên với sự chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi. Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc) vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát Quốc lộ 1 (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức làm lễ giỗ bà để ghi nhớ công ơn của bà đối với tổ quốc.

    Triệu Thị Trinh
    Triệu Thị Trinh
    Triệu Thị Trinh
    Triệu Thị Trinh
  3. Nổi tiếng với sắc đẹp, khả năng nữ công cùng sức mạnh, thích múa kiếm đi quyền, Bùi Thị Xuân là một trong những trụ cột và là khai quốc công thần của nhà Tây Sơn lúc bấy giờ. Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh Phú Yên. Nguyễn Huệ liền giao Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Đình Tú quản đốc, đem quân đánh Phú Yên.

    Năm 1785, Bùi Thị Xuân cùng chồng ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút đánh tan 2 vạn quân Xiêm La, cũng đã lập đại công. Bà đã chém bay đầu tướng Xiêm là Lục Côn. Theo tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung chỉ huy. Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương triều mới, trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc (Hà Tuyên)...


    Sau sự qua đời đột ngột của vua Quang Trung vào ngày 29/7/1792, chính sự nhà Tây Sơn diễn ra bất ổn. Hòng cứu vãn tình thế của nước ta, mùa xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem 5.000 quân đi hộ giá. Thấy thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ, cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng thì đội quân của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...Nhà Tây Sơn trượt dài trên đà suy vong. Và đó là trận đánh oanh liệt cuối cùng của vị nữ tướng anh hùng.

    Bùi Thị Xuân
    Bùi Thị Xuân
    Bùi Thị Xuân
    Bùi Thị Xuân
  4. Đại tá Đinh Thị Vân (SN 1916), là một người nữ anh hùng tình báo nổi tiếng của Việt Nam bà sinh ra ở làng Đông An, xã Xuân Thành, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tên thật là Đinh Thị Mậu, xuất thân trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước. Ngay từ nhỏ bà đã ý thức được tinh thần đấu tranh chống thực dân đế quốc vì độc lập dân tộc. Chính vì thế khi lớn lên tinh thần yêu nước càng lớn hơn, bà đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình dù còn nghĩa nặng tình sâu nhưng bà vẫn quyết cưới vợ cho chồng để chăm lo việc nhà, tạo điều kiện cho bà hoàn thành nhiệm vụ.


    Bà trở thành người tổ chức và điều hành mạng lưới tình báo tại Sài Gòn trong kháng chiến chống Mỹ. Với tính cách thông minh, nhanh nhẹn, kiên trung, xây dựng được mạng lưới tình báo vững chắc, bà đã cung cấp kịp thời cho Trung ương Đảng nhiều tin tức về các cuộc càn quét của Mỹ ngụy vào đầu não kháng chiến của ta ở miền Đông Nam bộ. Hệ thống tình báo của bà phục vụ đắc lực cho các kế hoạch tấn công của quân đội ta từ Tết Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng năm 1975.

    Đại tá Định Thị Vân.
    Đại tá Định Thị Vân.
    Đại tá Đinh Thị Vân
    Đại tá Đinh Thị Vân
  5. Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 ở xã Phước Thọ, quận Đất Đỏ, nay là huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Được sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng, năm 1947 khi mới 14 tuổi, chị gia nhập Đội Công an xung phong quận Đất Đỏ với mong muốn trừng trị bọn ác ôn. Từ đó, chị đã trở thành người chiến sĩ trinh sát làm nhiệm vụ phá tề, trừ gian với nhiều chiến công nổi tiếng. Tháng 2/1950, chị dẫn đầu một tổ, dùng lựu đạn tập kích diệt hai tên ác ôn Cả Suốt, Cả Đay. Không may chị bị sa vào tay địch. Chúng dùng mọi cực hình tra tấn, nhưng không khai thác được gì, liền đưa chị về giam ở khám Chí Hòa, Sài Gòn để tiếp tục khai thác và sau đó mở phiên tòa, tuyên án tử hình chị.


    Tại phiên tòa đại hình, tuy mới 17 tuổi, nhưng chị Võ Thị Sáu đã hiên ngang tỏ rõ khí phách anh hùng của một thiếu nữ Việt Nam làm cho lũ quan tòa và đồng bọn đều phải nể sợ. Chị sang sảng khẳng định: "Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội". Và khi tên quan tòa rung chuông ngắt lời chị, tuyên án: "Tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản", chị đã thét vào mặt y: "Tao còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa, tụi bây vô mà tịch thu!". Tiếp đó là tiếng hô: "Đả đảo thực dân Pháp!". "Kháng chiến nhất định thắng lợi!". Do chị chưa tới tổi vị thành niên nên bọn chúng chưa thực hiện bản án tử. Ngày 23/1/1952, chúng thi hành bản án, bắn chị ở ngoài hòn đảo xa đất liền này sau hai ngày chúng đưa chị ra đây.


    Bốn giờ sáng ngày 23/1/1952, sau khi tên chánh án làm thủ tục thi hành án, viên cố đạo liền lên tiếng: "Bây giờ cha rửa tội cho con". Chị gạt phắt lời viên cha cố: "Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới là có tội...". Ông ta kiên nhẫn thuyết phục: "Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?". Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và mặt tên chánh án, trả lời: "Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước". Đây là những lời nói đanh thép của chị trước lúc hi sinh.

    Nhà tưởng niệm và tượng đài của chị tọa lac tại trung tâm Huyện Đất Đỏ
    Nhà tưởng niệm và tượng đài của chị tọa lac tại trung tâm Huyện Đất Đỏ
    Võ Thị Sáu
    Võ Thị Sáu
  6. Nguyễn Thị Định (1920 - 1992), sinh ra tại tỉnh Bến Tre. Năm 1974 là Thiếu tướng, Phó tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam. Những người từng biết đến thiếu tướng Nguyễn Thị Định, hay còn được gọi với cái tên trìu mến là “bà ba Định” đều cho rằng, bà thật xứng đáng với 8 chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.


    Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng. Hai năm sau (1938) bà được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre, được không bao lâu thì chồng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Bất chấp con còn nhỏ, gởi lại mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia họạt động cách mạng tại tỉnh nhà.Năm 1940, bà lại bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước).


    Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà trong nhà tù. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8-1945. Tuy còn ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại nhiều mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến đầu tiên vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Từ đó tên tuổi của bà đỏ thắm “đường Hồ Chí Minh trên biển”.


    Sau ngày đất nước thống nhất, bà là nữ Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước đầu tiên của Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

    Nữ tướng duy nhất của Việt Nam ở thế kỷ 20.
    Nữ tướng duy nhất của Việt Nam ở thế kỷ 20.
    Nguyễn Thị Định
    Nguyễn Thị Định
  7. Đồng chí Võ Thị Thắng sinh ngày 10 tháng 12 năm Ất Dậu, 1945, trong một gia đình có truyền thống yêu nước, Ba má và 9 anh chị em cùng đi theo cách mạng.


    Đồng chí đã đi qua tuổi thơ đầy hào hùng, dữ dội: Mới 9 tuổi đã đi đưa thư liên lạc, mang cơm cho các chiến sĩ cách mạng đang được ba má của Đồng chí che chở nuôi giấu trong hầm bí mật của vườn nhà khi kẻ thù lê máy chém đi khắp Miền Nam; 13 tuổi vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An, khi 17 tuổi tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động bí mật trong Phong trào Thanh niên – Sinh viên – Học sinh; tiếp đến chuyển sang Phong trào Công nhân rồi lực lượng vũ trang trong lòng đô thị.


    Trong chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968, khi thực hiện nhiệm vụ trừ gian ở Phú Lâm, Quận 6, Đồng chí bị sa vào tay giặc. Với 6 năm ròng rã bị tù đày, Đồng chí đã bị kẻ thù tra tấn, giam cầm, đầy đọa từ Nhà lao Thủ Đức đến khám Chí Hòa, từ nhà lao Tân Hiệp, Hố Nai đến nhà tù Côn Đảo. Nhưng với khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, Đồng chí cũng như nhiều đồng đội khác đã không bị khuất phục trước bạo lực, cường quyền của kẻ thù. Theo Hiệp định Paris, kẻ thù đã phải trao trả nhiều chiến sĩ cách mạng bị giam cầm và Đồng chí về với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại sân bay Lộc Ninh ngày 7/3/1974.


    Sau ngày hòa bình lập lại, đất nước thống nhất (30/4/1975), Đồng chí về công tác ở Thành đoàn, Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, nhận nhiệm vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba đến khi nghỉ hưu.

    Bà Võ Thị Thắng phát biểu tại lễ bế mạc Liên hoan Thanh niên và Sinh viên Thế giới lần thứ 11 diễn ra tại Cuba năm 1978.
    Bà Võ Thị Thắng phát biểu tại lễ bế mạc Liên hoan Thanh niên và Sinh viên Thế giới lần thứ 11 diễn ra tại Cuba năm 1978.
    Võ Thị Thắng
    Võ Thị Thắng
  8. Nguyễn Thị Minh Khai là một nữ chiến sĩ cộng sản tiền bối trên quê hương Xô viết, người đã làm rạng danh truyền thống cách mạng của phụ nữ Việt Nam. Cô sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An). Hồi còn đi học bà được thầy giáo Trần Phú dìu dắt và giác ngộ lý tưởng cách mạng rất sớm.


    Năm 1927 đồng chí gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng. Năm 1935, học tại Trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô. Đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva. Năm 1936, về nước truyền đạt những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, được chỉ định làm bí thư Thành uỷ Sài Gòn và uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ. Tháng 9 năm 1939 xứ ủy Nam kỳ chủ trương khởi nghĩa; họp xong về tới ngã 6 thì bị sa vào tay giặc cùng chồng là Lê Hồng Phong. Biết đồng chí là cán bộ quan trọng, địch dùng mọi cực hình để tra tấn nhưng vẫn không có kết quả; chúng đưa đồng chí về giam ở khám lớn Sài Gòn.


    Ngày 23/11/1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ. Quân thù dựa vào cớ đó để kết án đồng chí sau khi không khuất phục được người cộng sản quả cảm; bị thực dân Pháp kết án tử hình. Cùng với các đồng chí của mình đã hiên ngang vạch mặt kẻ thù và bát bỏ mọi lời buộc tội của chúng.


    Đồng chí hy sinh ngày 28/8/1941 tại trường bắn Bà Điểm-Hóc Môn cùng với các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Văn Cừ. Nguyễn Thị Minh Khai là nữ chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam.

    Bưu chính Việt Nam in hình bà.
    Bưu chính Việt Nam in hình bà.
    Nguyễn Thị Minh Khai
    Nguyễn Thị Minh Khai
  9. Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930, tại xóm Trại Đồng, xã Tân Tiến (nay là thị trấn Nê, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình). Con đường trở thành đội viên du kích xã của cô bé Nguyễn Thị Chiên rất tự nhiên và tự phát. Sau phong trào “Tiếng trống Tiền Hải” năm 1930, Thái Bình trở thành điểm nóng trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Bị địch vây hãm, đàn áp nhưng phong trào ở đây không vì thế mà yếu đi. Mạng lưới cách mạng được nối nhịp, dựng xây và huyện Kiến Xương của bà được chọn làm nơi hoạt động đi về của các chiến sĩ cách mạng, của binh đoàn chủ lực. Bà rất nhanh nhẹn và có chí khí từ bé, nên đã được các anh, các chị kêu gọi vào du kích.


    Ban ngày đi làm thuê cuốc mướn, tối về nhà loanh quanh cám lợn, cám gà xong bà lại giả vờ tắt đèn đi ngủ, sau đó lẻn đến chỗ các anh, các chị du kích trong xã tập luyện và làm các công việc các anh, các chị phân công. Công việc cách mạng đến với bà Nguyễn thị Chiên cứ ngày này qua ngày khác, nhưng đến tháng 4 năm 1950, khi đưa cán bộ về hoặt động tại xã, bà bị địch bắt, giam cầm hơn ba tháng trời. Giặc hết dụ dỗ, đến tra tấn dã man, song người nữ du kích gan dạ vẫn cắn răng chịu đau, kiên trung bất khuất không hề khai báo đầu hàng.


    Ra tù, Nguyễn Thị Chiên tiếp tục lao vào hoạt động du kích, với nhiều chiến công bà lập được cho đất nước, bà Nguyễn Thị Chiên đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, hai Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.


    Năm 1952, Nguyễn Thị Chiên vinh dự là đại biểu nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình tại Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua Toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Việt Bắc (1/5/1952). Với những đóng góp của mình, Nguyễn Thị Chiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

    Bà là nữ anh hùng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.
    Bà là nữ anh hùng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.
    Nguyễn Thị Chiên
    Nguyễn Thị Chiên
  10. Nguyễn Thị Bình sinh nǎm 1927 tại Sa-đéc, tỉnh Đồng Tháp; quê quán ở tỉnh Quảng Nam; cháu ngoại cụ Phan Chu Trinh, nhà chí sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX. Kế thừa truyền thống yêu nước của gia đình, bà sớm tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của đất nước (1945). Bà là một trong những người lãnh đạo phong trào Phụ nữ cứu quốc Sài Gòn - Chợ Lớn; tham gia lãnh đạo phong trào học sinh sinh viên, phong trào phụ nữ cấp tiến với cái tên "Yến Sa", "Yến đẹp"; tham gia tích cực phong trào đấu tranh bảo vệ hoà bình của giới trí thức. Bị bắt và bị tù giam tại khám Chí Hoà 1951-1953. Là Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), rồi Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Trưởng Phái đoàn đàm phán tại Hội nghị quốc tế Pa-ri về Việt Nam, làm một trong bốn bên ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam nǎm 1973. Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Chính phủ CHXHCN Việt Nam 1976 - 1987.


    Từ nǎm 1992 là Phó chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình gia giáo, được giác ngộ và trưởng thành trong phong trào Cách mạng của quần chúng, Nguyễn Thị Bình là người phụ nữ thông minh, duyên dáng, khiêm nhường và có tài thuyết phục. Trong hoạt động ngoại giao khi tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia, với các chính khách cũng như đông đảo nhân dân khắp các châu lục A, Âu, Phi, Mỹ la-tinh..., bà đã để lại ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế. Đặc biệt ở thời điểm 1969-1975, với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Nguyễn Thị Bình đã đi thǎm nhiều nước trên thế giới để tuyên truyền, vận động các nước ủng hộ cuộc đấu tranh đòi hòa bình, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.


    Bà đã góp phần xứng đáng làm sáng tỏ sự nghiệp chính nghĩa của một dân tộc "thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Cho đến nay nhân dân Việt Nam và nhân dân nhiều nước đều đánh giá phong trào thế giới ủng hộ Việt Nam chống chiến tranh xâm lược trong những nǎm 60, đầu những nǎm 70 mạnh mẽ, sâu rộng chưa từng có trong lịch sử.Vai trò và sự đóng góp của vị "sứ giả hoà bình" Nguyễn Thị Bình là một biểu tượng sáng giá của Việt Nam ở những nǎm cuối thế kỷ XX.

    Bà Nguyễn Thị Bình.
    Bà Nguyễn Thị Bình.
    Nguyễn Thị Bình
    Nguyễn Thị Bình



xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |