Top 12 Món ăn cổ truyền đặc sắc nhất trong mâm cỗ Tết của dân tộc Tày
Tết đến xuân về cũng là lúc đồng bào người Tày nô nức chuẩn bị những món ăn hấp dẫn. Vì vậy hãy cùng Toplist khám phá những món ăn cổ truyền đặc sắc nhất trong ... xem thêm...mâm cỗ Tết của dân tộc Tày nhé!
-
Bánh chưng chính là một trong những món ăn ngày Tết của người Tày quan trọng nhất, không giống như bánh chưng của các dân tộc khác, bánh chưng của người Tày được gói dài, tròn gần giống bánh tét của người Kinh và có màu đen rất đặc trưng. Theo các bậc cao niên thì việc gói bánh như vậy sẽ vừa ăn và một người có thể ăn hết mà không sợ bị lãng phí.
Món bánh chưng của người Tày ngoài nếp nương, thì còn có thịt lợn đen nóng hổi tạo nên hương vị hấp dẫn. Để tạo ra màu đen cho nếp nương, người dân đốt thân cây muối rừng thành tro, vò kỹ, rây lấy phần mịn nhất rồi trộn với gạo nếp thơm. Nhân bánh gồm: thịt ba chỉ lợn thả đồi thái mỏng ướp với muối cùng tiêu giã nhỏ, đỗ xanh, lá dong rừng tươi. Với người Tày, bánh chưng là món ăn linh thiêng trong ngày Tết, khi được mời thưởng thức, nếu như khách không ăn bánh có nghĩa là bánh chưa ngon và sẽ không may suốt năm.
-
Cũng giống như nhiều dân tộc vùng núi phía Bắc khác, xôi ngũ sắc (còn gọi là cơm đen cơm đỏ) là món ăn không thể thiếu trong ẩm thực Tết của người Tày. Món xôi của người Tày dùng trong những ngày Tết sẽ có 5 màu tượng trưng cho ngũ hành: trắng, xanh, đen, đỏ và vàng ứng với kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Màu sắc của xôi được tạo nên hoàn toàn các nguyên liệu tự nhiên như nghệ, lá cây, chính vì vậy ngoài việc tạo màu sắc đẹp thì còn có tác dụng chữa bệnh.
Theo niềm tin của người dân tộc Tày, mỗi màu sắc có ý nghĩa riêng, tượng trưng cho ước mơ về hạnh phúc, khát vọng ngàn đời no đủ, mong ước mưa thuận gió hòa để mùa màng tốt tươi. Màu đỏ là biểu tượng của lửa và của sự no ấm nhiệt huyết, màu vàng đại diện cho cây lúa và các loại hoa màu, màu tím đại diện cho đất đai trù phú, màu trắng mang ý nghĩa của tình yêu thủy chung, màu xanh lam gắn với áo trang phục truyền thống của người Tày. Vào vụ lúa mùa, mỗi gia đình người Tày đều dành riêng một mảnh ruộng cấy nếp nương để Tết nấu xôi, làm bánh chưng. Nếp nương tròn hạt, thơm, hạt xôi mọng, dẻo, ngọt thơm hương vị đặc trưng vùng núi cao. Món xôi ngũ sắc của người Tày ngon hơn khi thưởng thức với cá nướng hoặc thịt nướng.
-
Cũng như bánh chưng, bánh dày là món ăn ngày Tết của người Tày không thể thiếu, bánh chưng được coi là cha thì bánh dày chính là mẹ và thường song hành cùng nhau. Người Tày thường giã bánh dày vào các dịp lễ, Tết, đặc biệt là lễ mừng lúa mới. Ở mỗi vùng miền, bánh dày lại được làm theo những cách khác nhau, nhuộm màu từ lá cây, củ quả hoặc để trắng nhưng đều hấp dẫn và mang hương vị đặc biệt.
Bánh dày của người Tày được làm từ gạo nếp thơm đem đồ chín rồi giã thật nhuyễn đến khi bột quánh lại thì được gói bằng lá chuối, ngoài ra người ta có cho thêm nước. Người Tày có hai loại bánh dày là bánh có nhân và bánh không nhân, bánh có nhân thường là nhân đỗ xanh. Gạo nếp làm bánh dày thường là gạo nếp nương bản địa. Theo người dân ở đây, chỉ có nếp nương trồng tại chính vùng đất quê hương mới cho ra được loại bánh dày thơm ngon nhất, nếp trồng nơi khác không thể đem lại hương vị như nếp nương “nhà trồng”.
-
Món bánh khảo truyền thống là thứ không thể thiếu được trong những ngày Tết đối với người Tày. Món bánh có sự kết hợp của bột gạo nếp tượng trưng cho đất mẹ, mùi thơm lừng từ vừng mang ý nghĩa hòa hợp, đoàn kết và vị ngọt của đường phên, rượu trắng thơm nồng tình yêu thương. Bánh thường được gói trong những mảnh giấy nhiều màu sặc sỡ. Món bánh khảo này để được rất lâu, vị ngọt tự nhiên và không dễ bị mốc.
Món bánh khảo thường được các bà các mẹ làm từ trước Tết, bánh được làm từ bột gạo nếp rang nhân đậu xanh quết nhuyễn. Khi chuẩn bị làm bánh, trước đó vài ngày, người dân chọn ra loại gạo nếp “Hèo” (một giống gạo nếp đặc biệt thơm và dẻo được để giống từ đời xưa), để hong trên bếp lửa thật khô rồi mang đi nổ. Người Tày không nổ gạo bằng máy điện mà cho gạo vào một cái máy quay trên bếp than đỏ hồng, tầm 15-20 phút là được, nổ xong mang đi nghiền thành thứ bột thật mịn và bọc trong túi ni lông kín.
-
Cũng giống như bánh khảo thì bánh chè lam cũng là món Tết rất nổi tiếng của người Tày. Chè lam dường như là thứ quà của nhiều miền quê Việt, vậy nhưng mỗi nơi lại đem đến cho người ăn những cảm nhận riêng trong hương vị. Với người Tày, chè lam trước kia thường chỉ được làm vào dịp Tết nguyên đán cùng với bánh khảo và bánh chưng, nhưng ngày nay, do sự phát triển của xã hội cũng như nhu cầu của thực khách, chè lam được làm quanh năm.
Món ăn này là sự kết hợp tuyệt vời của bột nếp dẻo, mật ngọt, lạc bùi và chút cay của gừng. Nguyên liệu làm bánh rất đơn giản nhưng các công đoạn chế biến thật sự cầu kỳ, từ công đoạn chọn gạo, rang gạo, xay gạo cho đến công đoạn sên đường và khấu bánh với các nguyên liệu. Bánh chè lam dẻo nhưng không hề dính và có mùi thơm rất quyến rũ nên bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều sẽ nhớ mãi không quên. Món bánh chè lam khi nào làm xong, thường được cắt 1 phần dâng lên ông bà tổ tiên trước, sau đó là con cháu trong nhà cùng ngồi quây quần thưởng thức.
-
Trong các ngày lễ tết, mâm cỗ của đồng bào dân tộc Tày luôn có một món không thể thiếu đó là món khâu nhục. Món này làm bằng thịt ba chỉ heo xếp trên bát lùm lùm như quả đồi nên gọi là khau nhục (theo tiếng địa phương khau là đồi, nhục là thịt). Còn có tên gọi khác là nằm khau (nằm: chín nhừ, khau: đồi). Dù có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng hiểu đơn giản đó là món thịt heo nấu nhừ.
Khi nếm thử sẽ thấy thịt ngầy ngậy, mềm nhừ. Khoai vừa bột vừa dẻo. Hai vị này quyện với nhau thật đậm đà. Lại thêm cái giòn lựt sựt của củ cải khô, thầu soi thái nhỏ, cái bùi bùi bở bở của hạt tương đen. Vừa thơm vừa ngậy, béo mà không mỡ, nhừ mà không nát. Gắp thêm miếng nữa, nhấp một chút rượu đưa cay, mâm cỗ càng thêm phần rôm rả. Làm khâu nhục thật cầu kỳ, công phu nên nhiều người gọi vui món này là món “khổ nhọc”. Tuy thế, món khâu nhục đã góp cho mâm cỗ ngày hiếu hỉ, lễ, Tết của đồng bào thêm hương vị, đồng thời thể hiện lòng hiếu khách của chủ nhân ngôi nhà.
-
Thịt trâu khô là món ăn ngày Tết của người Tày rất nổi tiếng, thịt được dùng để ăn dần rất lâu hoặc chế biến thành các món ăn đặc trưng như thịt trâu nấu lá cải, thịt trâu khô xào tỏi… Thịt trâu khô không chỉ là món ngon mang đậm hương vị vùng cao, nét văn hóa miền sơn cước mà còn là món ăn quen thuộc của người dân nơi đây, món quà của du khách khi ghé thăm đồng bào dân tộc Tày. Cách chế biến món thịt trâu khô cũng khá cầu kỳ với nhiều công đoạn, thường người ta sẽ chuẩn bị từ trước Tết.
Theo đó, thịt trâu tươi sẽ được mang đi tẩm ướp gia vị sau đó đem gác bếp hoặc sấy khô rồi trữ để ăn dần. Món thịt trâu khô rất nổi tiếng và ngày nay đã trở thành đặc sản được nhiều người yêu thích. Mùi thịt trâu thơm ngon, đậm đà, đặc biệt là dậy mùi nếu dùng chung với rượu ngô men lá Na Hang. Hương vị đặc trưng của món ăn này không lẫn vào đâu được đó là vị khói bếp than hòa quyện với mắc khén, lá rừng.
-
Bánh gio (bánh tro), tên gọi theo tiếng Tày là “ Pẻng tấu”, loại bánh được làm vào các dịp lễ Tết, được đem cúng đất trời, tổ tiên. Đây là loại bánh truyền thống, không thể thiếu trong các nghi lễ của dân tộc Tày. Một loại bánh được làm từ những nguyên liệu hết sức bình dị, dễ làm mà ngon đến đặc biệt. Bánh có vị ngọt thanh, pha chút nồng ngái của nước tro, ăn thấy lạ miệng mà không chán ngấy. Ấy mới biết sự khéo léo trong việc chế biến các món ăn của người Tày như thế nào, không cầu kì, tỉ mỉ như người Thái, nhưng hương vị luôn toát lên nét đặc trưng của dân tộc mình cũng như của các sản vật núi rừng phía Bắc.
Cái tên bánh gio xuất phát từ chính nguyên liệu làm bánh, đó là tro mịn. Tro được sử dụng để ngâm gạo làm bánh và dùng làm nước luộc bánh. Bà con người Tày lấy củi cây tầm gửi, cây sấu, rơm nếp... đốt thành tro, vò mịn, rồi đem lọc lắng lấy nước tro màu vàng nâu. Đem nước tro ngâm gạo trong vài tiếng cho tới khi hạt gạo mềm, vò sát hai ngón tay vào hạt gạo, hạt vỡ vụn ra. Gạo làm bánh tro là gạo nếp nguyên chất, không pha gạo tẻ. Lá gói bánh là lá dong rừng, chọn lá to, bánh tẻ, tước hết gân lá, đem luộc qua, lau khô. Nước luộc bánh là nước tro pha loãng, luộc bánh bằng củi cây rừng để được đồ rền ngon nhất.
-
Bánh chuối của người Tày không chỉ là dịp để những người con thể hiện tấm lòng thơm thảo đến đấng sinh thành của mình mà còn để tôn vinh những nét đẹp văn hóa truyền thống của Việt Nam trong những ngày Tết. Khác với những dân tộc khác là ngồi thiền trà, ăn chay, thì dân tộc Tày lại làm những mẻ bánh chuối thơm ngon dâng cúng tổ tiên để thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với những bậc sinh thành và cầu nguyện những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Để làm bánh chuối, sức hấp dẫn được thể hiện qua những bàn tay khéo léo của các bà, các mẹ. Bánh chuối được gói thành cặp, sử dụng lá chuối khô để bọc. Nhìn những chiếc bánh được gói tỉ mỉ, gọn gàng có thể thấy sự khéo léo, đảm đang của các bà, các cô. Để làm một cặp bánh chuối phải trải qua những công đoạn khá cầu kỳ. Từ nguyên liệu rất gần gũi, khi làm bánh phải chuẩn bị lá chuối phơi khô để gói bánh và gạo nếp ngon. Bánh có màu nâu nhạt, vị ngọt nhẹ, thơm. Đây là sản phẩm không thể thiếu trong mâm lễ cúng tổ tiên của dân tộc Tày trong dịp Tết cổ truyền. Bánh ăn ngon, không ngấy, lại để được lâu hơn những loại bánh khác nên khi khách đến chơi, người Tày vẫn thường biếu về làm quà.
-
Nhắc đến món ăn ngày Tết của người Tày đặc trưng nhất thì chắc chắn thịt chua chính là cái tên không thể bỏ qua. Mỗi dân tộc có một cách chế biến thịt chua khác nhau. Với người Tày lại có cách làm món thịt lợn chua độc đáo riêng, khiến ai ăn một lần cũng nhớ mãi. Thịt lợn muối chua cũng là một cách bảo quản thịt khi không dùng hết ngay của người Tày. Thịt lợn chua của người Tày được chế biến thành rất nhiều món ngon cho ngày Tết như xào măng chua, xào riềng ăn cùng rau dớn…
Để làm nên món thịt lợn chua ngon và đặc trưng, rất kỳ công. Thịt lợn làm thịt chua phải chọn được thịt lợn đen “lợn lửng”, được bà con chăn nuôi theo hình thức thả rông. Sau đó trộn hỗn hợp lá gia vị (riềng, gừng, lá trầu, lá cơm đỏ) và rượu ngô với thịt. Dùng gạo tẻ hoặc gạo nếp nấu chín thành cơm sau đó xới ra để nguội và bóp đều vào thịt, cơm sẽ thấm muối giúp thịt bớt mặn. Công đoạn ủ thịt chua có thể mất 5 ngày đến nửa tháng hoặc lâu hơn tùy thuộc thời tiết và khẩu vị người ăn. Khi thịt đủ độ chua có thể mang ra thưởng thức. Món thịt chua ăn với xôi hoặc cơm nếp sẽ cực ngon.
-
Gà trống thiến là một trong những món ăn truyền thống không thể thiếu trên mâm cỗ của đồng bào Tày để dành thiết đãi khách quý hoặc các tiệc ăn mừng, hiếu hỉ; đặc biệt vào các dịp lễ, Tết...Theo quan niệm dân gian, gà trống thiến là loại vật linh thiêng được chọn để dâng cúng tổ tiên, thể hiện ước vọng của người Việt một năm mới an khang, thịnh vượng hơn năm cũ.
Gà được chọn phải là con to béo nhất, được làm sạch sẽ và đem luộc để bày thật trang trọng trên mâm cúng. Gà trống thiến có kích thước lớn gấp 2 - 3 lần so với gà bình thường. Thịt gà trống thiến ngọt, mềm nhưng săn chắc, da dày và giòn; sau khi luộc, màu gà ngả vàng óng rất đẹp mắt. Nhờ vậy, gà trống thiến rất được người dân ưa chuộng để ăn vào những ngày Tết hoặc đem biếu, tặng. Không chỉ người Tày mà với nhiều dân tộc thì món gà trống thiến hay thịt gà nhất định phải có trong mâm cỗ ngày Tết.
-
Món thịt lợn quay là món ăn nổi tiếng của người Tày Văn Lãng (Lạng Sơn) và rất quen thuộc trong mâm cơm ngày Tết. Để làm món này, đồng bào thường chọn giống lợn ta xương nhỏ, thịt chắc và nạc nhiều, có trọng lượng từ 20 kg đến 30 kg. Lợn sẽ được quay chín bằng lửa đượm của than hoa, quay đều tay khoảng 3 tiếng cho chín đều. Khi lớp da ngoài khô, người ta lấy hỗn hợp mật ong pha giấm quết lên trên cho da lợn vàng rộm và giòn thơm…
Tuỳ vào quy mô của sự kiện người ta sẽ quay những con lợn với trọng lượng khác nhau: Các dịp Tết thì 5-6 gia đình sẽ cùng nhau đụng 1 con lợn khoảng từ 40-50kg móc hàm. Thịt lợn quay khi ăn sẽ được chấm với thứ nước được lấy ra từ trong bụng của lợn với vị ngọt đậm đà, béo ngậy, dậy mùi thơm của lá và quả mắc mật.