Top 10 Câu chuyện hay về luật nhân quả
Luật nhân quả là quy luật khách quan của sự sống trong vũ trụ. Có tu học Phật pháp hay không thì mọi người đều sống trong luật nhân quả. Từ sự vận hành của ... xem thêm...thiên thể, sự chuyển động của sông núi, cho đến cành cây ngọn cỏ, tất cả đều là kết quả của sự vận hành luật nhân quả. Cùng Toplist điểm qua một số câu chuyện hay và ý nghĩa về luật nhân quả để chiêm nghiệm cuộc sống nhé!
-
Thập niên 70 có một sự việc xảy ra tại thành phố Bắc Kinh. Một người phụ nữ hơn 60 tuổi, thân hình cao lớn khỏe mạnh tên là Lưu Thị, gia đình có 6 người thuê vài căn phòng ở trọ, một gian là mẹ chồng ở, hai gian là người phụ nữ đó và cháu trai cháu gái ở, còn hai gian khác là con trai và con gái ở.
Chồng của Lưu Thị mất từ khi nào thì không rõ, chỉ biết khi gia đình chuyển về đây anh đã không còn nữa. Mẹ chồng không phải là mẹ ruột của chồng Lưu Thị, bởi chồng Lưu Thị chỉ là con nuôi của cụ bà. Bảy, tám mươi năm trước, theo tục lệ ở làng, con gái không được kế thừa gia sản của gia đình, và phụ nữ có gia sản mà không có con trai thì nhất định phải nhận con trai của người thân làm con nuôi, nếu không toàn bộ gia tài đều bị người thân kế thừa. Việc nhận con nuôi này là vô cùng nghiêm túc, tuy rằng không có thủ tục giấy tờ pháp lý nhưng còn nghiêm túc hơn nhiều so với thủ tục pháp lý ngày nay. Chồng Lưu Thị đã chết nhưng cả gia đình cô đều phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng cụ bà.
Cuộc sống hàng ngày của cụ bà ra sao, không ai được biết, chỉ biết từ trước tới nay cụ bà không bao giờ ăn cơm chung cùng mọi người, cơm nước đều được đem tới phòng cho bà. Một ngày không may, cụ bà bị ngã gãy xương phải nằm trên giường, đó là căn phòng phía nam, mùa đông không có ánh mặt trời, cũng không bao giờ thấy có người đưa cụ ra ngoài phòng tắm nắng, càng không có người lật mình cho cụ, phía dưới mông của cụ thịt bị thối loét vì nằm liệt giường. Từ đó hàng xóm đều dần dần không nhìn thấy cụ bà nữa.
Sau này mọi người thường xuyên nghe thấy lời oán trách của Lưu Thị rằng cụ bà hay đại tiện trên giường, và mọi người cũng thường xuyên nghe thấy tiếng kêu đói kêu khát của cụ bà. Rồi một ngày người ta nghe nói mẹ chồng của Lưu Thị chết đói trên sàn nhà, vì Lưu Thị sợ cụ bà sẽ đại tiện tại chỗ nên thường để cơm dưới đất cho cụ bà ăn. Cụ bà vốn gãy chân, vì để lấy bát cơm nên đã ngã từ trên giường xuống và chết ở đó, đến đây câu chuyện mới bắt đầu xảy ra.
Không nhớ rõ chính xác là mấy năm sau, Lưu Thị từ một người thân thể to cao khỏe mạnh, bước đi nhanh nhẹn, giọng nói vang vang, đột nhiên trúng gió bị tê liệt, miệng méo mắt lệch, nói chuyện không rõ, vệ sinh đại tiện đều trên giường.
Lưu Thị có một người con trai, hai người con gái, con trai Lưu Thị là một bác sỹ có tay nghề tinh xảo, đó là niềm kiêu ngạo của Lưu Thị, Lưu Thị đời này toàn lực chăm sóc cho con trai, sau khi con trai lấy vợ sinh con đều do một tay Lưu Thị chăm sóc.
Khi Lưu Thị bị liệt, vệ sinh đại tiện đều trên giường, lúc này con gái lớn đành đón mẹ về nhà mình ở, vì tránh để mẹ bị lở loét khi nằm một chỗ, người con gái tuy bị cao huyết áp nhưng cứ một lúc lại lật người cho mẹ, nhưng Lưu Thị thân người to lớn, con gái bị cao huyết áp mỗi lần lật mình cho mẹ là lại bị mệt, huyết áp tăng cao phải uống thuốc, con rể đau lòng mà nói: Như vậy không được, không thể tiếp tục như vậy thêm được nữa.
Một buổi sáng, người con trai trên 50 tuổi của Lưu Thị bất giác không dậy được rồi ra đi, nghe nói tim có vấn đề, nhưng mà người con trai này từ trước tới nay không hề có bệnh về tim. Lưu Thị một thời gian dài không thấy con trai đến thăm mình, miệng nói không rõ câu mà hỏi thăm người nhà, tuy mọi người đều nói là bận công việc, nhưng trên khuôn mặt đã biểu đạt ra câu trả lời, Lưu Thị nước mắt không ngừng rơi. Con người thường cho rằng mình nghĩ gì thì làm nấy, muốn hành ác như thế nào thì hành ác như thế đó, có bao nhiêu sự việc đã biểu thị rõ ràng, căn bản không phải là vậy.
-
Truyện Pháp Cú kể rằng: Lúc Thế Tôn cùng các Tỳ kheo ở tại tinh xá Trúc Lâm, cách đó không xa, có đồ tể Cunda sống bằng nghề mổ lợn. Mỗi lần giết lợn, ông ta trói thật chặt vào cột và nện nó bằng một cây chày vuông, rồi banh hàm và rót nước sôi vào họng, kế đến đổ nước sôi lên lưng, làm tuột lớp da đen và thui lớp lông cứng bằng một bó đuốc. Cuối cùng ông cắt đầu lợn bằng một thanh kiếm nhọn rồi xẻ thịt, lột da. Và Cunda đã sống bằng nghề mổ và bán thịt như thế gần hai mươi năm.
Dù đức Ðạo Sư ở tinh xá cách đó không xa mà chẳng khi nào Cunda cúng dường Ngài, dù là một cành hoa hay một nắm cơm, cũng không làm một việc công đức nào cả. Một hôm ông mắc bệnh, và dù ông ta vẫn còn sống nhưng lửa của địa ngục A Tỳ đã bốc cháy trước mặt. Khi cực hình địa ngục giáng xuống đồ tể Cunda, ông ta bắt đầu kêu eng éc và bò bằng tay và đầu gối. Người nhà rất kinh khiếp tìm mọi cách bịt miệng ông ta, chặn các cửa và nhốt ông ở trong nhà. Suốt bảy ngày, chịu sự đau khổ, ông luôn mồm rống eng éc như lợn.
Vài tỳ kheo đi ngang qua cửa nhà ông, nghe tiếng lợn kêu eng éc ồn ào, khi về tinh xá, bạch với Đạo Sư: “Bạch Thế Tôn, trong bảy ngày qua cửa nhà đồ tể Cunda đóng kín và ông ấy vẫn tiếp tục giết lợn. Thế Tôn nghĩ xem, biết bao nhiêu con bị giết. Thật từ trước tới nay chưa thấy ai độc ác và dã man như thế!”.
Đức Đạo Sư nói: “Này các Tỳ kheo! Ông ta không giết lợn trong bảy ngày qua đâu. Sự trừng phạt phù hợp với việc làm ác đã xảy đến đối với ông ta. Ngay khi ông ta còn sống, cực hình của địa ngục A Tỳ đã đến. Vì cực hình này, ông ta bò tới bò lui trong nhà, kêu la eng éc như một con lợn suốt bảy ngày. Hôm nay ông ta đã chết và bị đọa vào địa ngục A Tỳ”.
-
Hoàng L. là người Thái Bình. Cha anh ta là một người bạn tốt của một vị Hòa thượng danh tiếng và tu luyện tốt, ông cũng giỏi về thơ văn và xem thuật tướng. Trước đó, vị Hòa thượng này đã xem thuật tướng cho Hòang L. và bảo rằng anh ta có một tướng mạo làm giàu, sau này sẽ rất thành đạt trong đường đời của anh ta.
Vào tuổi 20, Hoàng L. đã cưới một cô vợ xinh đep. Vài năm sau, anh ta đã được bổ nhiệm làm việc như một viên chức chính phủ tại thủ đô nhưng vợ của anh ta thì ở quê nhà. Ít năm sau đó, Hoàng L. gặp lại vị Hòa thượng, ông rất đỗi ngạc nhiên về những gì mà ông ta đã nhìn thấy ở anh ta và ông nói, “Cách đây nhiều năm, tôi đã thấy anh có một diện mạo làm giàu nhưng tại sao điều đó đã lại thay đổi? Trán của anh lúc đó đầy đặn nhưng bây giờ nó dường như đã sụp xuống, cằm của anh đã rất tròn nhưng giờ đây nó lại rất nhọn. Ngoài ra, lại có khí đen xung quanh trung tâm của lòng bàn tay của anh. Điều này có nghĩa có tai họa đang chờ đợi anh, anh cần phải cẩn thận. Thuật tướng của anh đã thay đổi rất nhiều. Tôi thắc mắc anh đã làm điều gì không đúng luân thường đạo lý?”
Hoàng L. đã ngẫm nghĩ lại những hành vi của anh ta trong vài năm qua và chỉ một điều mà anh có thể nghĩ đến là việc ngoại tình của anh ta với nhiều phụ nữ khác trong thời gian anh ta làm việc ở thủ đô. Sau khi nghe điều này, vị hòa thượng đã thở dài và nói, “Ban đầu anh được duyên cơ có một cuộc đời tốt, nhưng anh đã không quí nó và đã có hành vi dâm ô với những phụ nữ khác. Đó là một điều hổ thẹn mà anh đã hủy diệt chính sự may mắn của anh trong hành vi này”. Không lâu sau đó, Hoàng L. quả thật đã gánh tai nghiệp vào mình như vị Hòa thượng đã được tiên đoán. Một hôm, trong khi Hoàng L. đang tắm, người cấp dưới của anh đã hại anh ta. Anh đã bị giết bởi một thanh kiếm. Bụng anh ta bị cắt đi và tất cả các nội tạng lọt ra ngoài.
-
Câu chuyện này xảy ra ở Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Một người đàn ông sinh sống bằng nghề giết mổ lợn. Ông có bốn con trai và một con gái. Ba người con trai lớn theo nghề của cha kiếm tiền, cuộc sống gia đình rất khá giả. Sau khi ông chết đi ba người con trai lớn vẫn tiếp tục nghề đó. Một ngày nọ, họ mua một con lợn về chuẩn bị mổ thịt, thì họ bị sửng sốt khi nghe con lợn nói “Làm ơn đừng giết tôi, đừng giết tôi.” Họ hỏi: Ngươi vừa mới nói gì? Con lợn nói: “Ta là cha của các con. Đừng giết ta. Ta được đầu thai thành lợn, bởi vì ta phạm phải tội rất lớn đó là giết rất nhiều lợn khi còn sống. Hôm nay ta được xếp đặt để gặp các con để truyền đạt một điều quan trọng: “Hãy từ bỏ nghề mổ lợn và tìm nghề khác mà làm.”
Con lợn chết sau khi nói xong. Mấy anh em buồn khóc thảm thiết và đem chôn con lợn này. Họ chia nhau tài sản của gia đình và mỗi người đi một đường. Người con trai đầu trở thành đại lý bán gạo; người con trai thứ ba mở một cửa tiệm bán quần áo. Người con trai út vẫn còn rất bé. Người con gái thì theo chồng. Người con trai thứ hai vẫn tiếp tục làm nghề giết mổ lợn bất chấp lời cảnh cáo của cha mình.
Một hôm anh ta dùng hết gia tài của mình mua một bầy lợn. Khi anh lùa bầy lợn qua một bờ đê, một cơn gió mạnh đột ngột tới làm thành bão cát bao phủ cả vùng trời. Gió rất mạnh và tràn khắp vùng làm anh ta không cách nào mở mắt ra được. Anh ta không còn chọn lựa nào khác đành phải ngồi xuống bờ đê và đợi hết gió. Cơn gió kéo dài 4 giờ đồng hồ. khi anh ta mở mắt ra, không thấy còn con lợn nào cả. Anh ta đã mất sạch hết tiền. Anh ta cảm thấy hối hận, và ngồi ở đó khóc và khóc đến khi đôi mắt bị mù.
-
Thủ Huồng tên thật Võ Hữu Hoằng, theo chuyện kể thì ông là người châu Đại Phố (tức Cù lao Phố), huyện Phước Chính, phủ Phước Long, nước Đại Nam (nay là Biên Hòa, Việt Nam).Theo Đại Nam nhất thống chí, ông có tên Võ Hữu Hoằng. Nhưng có nơi gọi là Thủ Huồng, Thủ Hoằng, Võ Thủ Hoằng.
Khoảng năm 1755, ở châu Đại Phố có một người tên là Võ Hữu Hoằng. Ông xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm làm việc trong nha môn, ông đã thu được nhiều tiền của. Sau khi vợ mất sớm lại không con, mà tiền bạc thì quá thừa thãi, Thủ Huồng xin thôi việc về nhà.
Thủ Huồng rất yêu vợ, cho nên khi nghe người mách rằng ở chợ Mãnh Ma (Quảng Yên) là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau, ông quyết đi tìm vợ. Gặp nhau, trong lúc trò chuyện, Thủ Huồng ngỏ ý muốn xuống âm phủ chơi. Ở cõi âm, ông tận mắt nhìn thấy những cực hình dành cho những kẻ phạm nhiều tội ác khi còn sống. Và ông cũng đã nhìn thấy một cái gông to, mà cai ngục cho biết là để dành cho ông vì ông phạm tội ăn cắp.
Khi trở lại cõi dương, Thủ Huồng sợ bị đọa vào địa ngục, liền đem toàn bộ tài sản dùng vào việc bố thí, xây dựng những công trình phúc lợi, đặc biệt là làm nhà để giúp dân nghèo tránh nước triều dâng ở ngã ba sông.
Sách Gia Định thành thông chí có ghi:
“Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách thổi cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh tên là Võ Thủ Hoằng kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ…Vì kỵ húy tên vua Hoằng Lịch (Càn Long) nhà Đại Thanh nên phải đọc trại đi là Võ Thủ Huồng. Chiếc cầu Thủ Huồng giữa Tân Vạn và chợ Đồn (Biên Hòa) tương truyền do Võ Thủ Huồng xây dựng đến nay vẫn còn. Sau, Thủ Huồng được vợ đưa xuống cõi âm lần nữa, và thấy cái gông ngày cũ đã nhỏ lại rất nhiều. Từ đó, ông tiếp tục làm việc thiện, việc nghĩa cho đến khi mất. Khá lâu sau, có ông vua nhà Thanh (Trung Hoa) tên là Đạo Quang (1782-1850) lúc mới lên ngôi (1820) có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi mới sinh, trong lòng bàn tay vua đã có mấy chữ “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”. Khi rõ chuyện, nhà vua có gửi cúng chùa Chúc Thọ (chùa Thủ Huồng) ở Biên Hòa một bộ tượng Phật Tam Thế bằng gỗ trầm hương. Do việc này, mà có người bảo rằng: Nhờ thành thật hối lỗi, Thủ Huồng chẳng những làm tiêu tan cái gông đang chờ ông ở cõi âm, mà còn được đi đầu thai làm vua ở Trung Hoa.
-
Có một sư thầy tên gọi là thầy Giác Liên, trụ trì tại chùa Phước Hải, Tỉnh Vĩnh Long đã từng kể về những câu chuyện nhân quả mà chính thầy đã chứng kiến trong kiếp tu hành của mình. Một trong nhiều câu chuyện hay được nhắc đến nhất đó là câu chuyện về một cậu bé tên Hiền, sống ngày qua ngày bằng việc xin ăn tại chợ Trà Vinh với hình dáng và thân thể giống như thân thể của một con bò.
Hiền được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với nghề mổ bò truyền thống ở Trà Vinh. Ông nội của Hiền cũng nhờ nghề này mà đã trở nên khấm khá, giàu có. Một ngày nọ, trước khi chuẩn bị làm thịt một con bò cái, bỗng nhiên ông liền nằm thấy chiêm bao, trong giấc mơ có một người đàn bà đi đến bên ông và nhìn ông khóc lóc, van xin rằng: “Tôi van xin ông, ông làm ơn đừng giết tôi, hãy để tôi sinh con xong rồi thì ông có thể giết”.
Điều lạ là trong một đêm, không những ông chỉ mơ thấy một lần mà tới 3 lần cùng một giấc mơ. Ông bèn mang câu chuyện này đi kể cho vợ nghe thì người vợ có khuyên ông rằng không nên mổ thịt con bò này mà hãy tiếp tục nuôi nó để cho nó đẻ. Suy đi tính lại, không hiểu sao cuối cùng ông vẫn quyết định làm thịt nó để bán.
Sáng sớm hôm sau, con bò này kêu la to và khủng khiếp hơn so với nhiều con bò khác mà ông đã từng thịt, nó lăn lộn, giãy giụa tới mức bứt cả sợi dây trói. Cuối cùng thì nó vẫn phải chết, cái cảnh tượng của con bò khi đó khiến ông nội Hiền nhớ mãi cho đến sau này vẫn không thể quên được, chính là cái đầu nó cứ lắc lư qua lại mãi như thể nó vẫn đang còn sống.
Điều trùng hợp ở đây là một thời gian sau khi ông giết con bò đó thì con dâu ông trở dạ sinh đứa cháu nội đầu tiên - cháu đích tôn của ông. Sẽ không có gì đáng nói nếu như cháu của ông khi sinh ra không mang trên người những dị tật rất giống với hình dáng của một con bò. Đó là con vật môi thì bị sứt, mắt thì lồi chân tay thì cong queo không đi được, phải bò, riêng cái đầu thì cứ lắc lư qua lại không thôi.
Đứa trẻ đó chính là Hiền. Khi nhìn hình ảnh của cháu mình, người ông không thể nào không liên tưởng đến cái chết của con bò cái mà ông đã giết, đặc biệt là về động tác lắc lư cái đầu. Nhìn hình ảnh cháu và những chuyện đã qua, ông như đã hiểu nguyên nhân sâu xa vì sao mà cháu mình khi mới sinh ra đã bị như vậy.
Ông vô cùng hối hận và muốn sửa sai, muốn chuộc lại lỗi lầm của mình, ông quyết định bỏ cái nghề đã tồn lại từ lâu đời và là nguồn làm giàu của gia đình từ xưa đến nay. Ông bỏ hẳn việc sát sinh bò. Bên cạnh đó, vì lo chữa trị cho cháu, có bao nhiêu của cải, tiền bạc ông đều dốc hết. Tuy nhiên cậu bé vẫn phải sống và mang trên mình những dị tật như vậy.
Không những thế, cay đắng hơn, khi lên 10, Hiền đã phải lần lượt mất đi những người thân của mình vì ai cũng mang trọng bệnh và chết bất thình lình, em phải bò lê la ra chợ để xin ăn. Cứ mỗi lần xin ăn, không hiểu như có ai đó xui khiến, Hiền vừa lết vừa kêu gào, khóc lóc rất thảm thiết: “Xin mọi người, xin các chú các bác, các cô các dì đừng giết con, con là con bò…”.
Đây là một câu chuyện về luật nhân quả, về quả báo mà đối với mỗi người dân Vĩnh Long, câu chuyện này của sư thầy dường như in sâu vào tâm trí họ như những bài học về đạo lý, để biết cách sống và định hướng sống sao cho không đi theo vết xe đổ của những người được kể trong những câu chuyện của sư thầy. -
Trong suốt quá trình mở rộng cuộc vận động, chính quyền ép buộc người dân phải phá hủy vô số đồ cổ, đền thờ. Tuy nhiên chỉ có duy nhất một ngôi miếu nhỏ và bài vị tổ tiên ở trong miếu đó là không một ai dám động đến. Nhưng có hai thanh niên trẻ trong làng thuộc dạng phá phách, hay vỗ ngực xưng tên, thẳng thừng tuyên bố rằng hai người họ sẽ đập tan cái miếu đó nếu không có ai dám đập.
Cuối cùng, ngôi miếu bị đập phá, bài vị tổ tiên còn bị 2 thanh niên kia dùng chân giẫm nát sau đó đem đến con sông ở trước thôn vứt đi. Sau khi đập phá xong, một người thì trở về nhà, người còn lại thì ngồi hóng mát và nghỉ ngơi ở ven sông.
Thanh niên trở về nhà, sau khi vừa về đến nhà bỗng dưng bị đau bụng quằn quại, khóc thét lăn lộn khắp nhà. Người mẹ của thanh niên này là một người vốn tin vào đạo Phật, chứng kiến cảnh con trai sau khi đập phá miếu thờ trở về nhà lại đột nhiên bị bạo bệnh, biết tính mạng con trai mình khó giữ nên bà đã thành tâm quỳ gối lê lết từ nhà đến tận ngôi miếu nhỏ vừa bị đập phá kia để thay con trai nhận tội và cầu xin thánh thần.
Riêng người thanh niên này sau khi bị đau bụng dữ dội cũng đã nhận ra mình đã bị quả báo, trong lòng anh ta cảm thấy vô cùng hối hận, ăn năn tự phát tâm kính trọng Phật. Sau đó kết quả thật khó tin, anh ta cảm thấy bụng mình giảm đau dần dần và sau đó hết hẳn. Biết mình được tha thứ, ngày đêm thành tâm đọc kinh thỉnh Phật.
Còn người thanh niên ngồi bên bờ sông nghỉ ngơi thì lại không được gặp may như vậy. Sau khi hóng mát và nghỉ ngơi xong, anh ta chuẩn bị đi về, ngay lúc anh ta vừa đứng dậy dù không vấp phải thứ gì nhưng đột nhiên lại bị ngã nhào xuống mặt đất. Anh ta luống cuống đứng dậy một cách cố gắng, thì bỗng nhiên phát hiện hai chân của mình bị uốn cong lại một cách vô lí, cho dù dùng hết sức lực như thế nào thì anh ta cũng không thể nào đứng thẳng dậy được.
Không những thế, hai chân của anh ta còn bị dính chập vào nhau ở một chỗ, không thể nào mở tách ra được. Chưa dừng lại ở đó, lưng của anh ta tự nhiên cũng bị gì và gập xuống, một cách khó tin, cứ thế đầu anh ta cứ áp sát, cắm xuống mặt đất mặc dù anh ta cũng đã cố hết sức để đứng thẳng lưng dậy nhưng bất lực.
Trên đường đi về, cứ như thế vừa đi anh ta phải dùng cả hai tay để chống xuống đất. Kể từ đó về sau, anh ta đều phải đi với tư thế này trong suốt quãng đời còn lại của mình, một cách vô cùng thống khổ. Động tác và dáng đi này của anh ta làm người khác liên tưởng tới động tác vừa đi vừa dập đầu vái Phật.
Mọi người trong thôn này đều cho rằng vì đập phá miếu, làm nhục và vứt bài vị tổ tiên mà đã bị báo ứng như thế. Anh ta phải chịu tư thế đi này trong suốt quãng đời còn lại của mình. -
Chuyện này do chị Lê Thị Hoa trong phái đoàn của Úc kể lại. Đây là chuyện có thật xảy ra ngay trongchính gia đình chị. Những kỉ niệm từ khi chị mới 4 tuổi cho tới nay chị nhớ rất rõ mặc dù đã gần 50 năm trôi qua, nhưng sự thật về những câu chuyện nhân quả xảy ra trong gia đình chị thì không bao giờ phai nhạt. Chị kể lại mà thỉnh thoảng ngưng lại vì đôi dòng nước mắt cứ tuôn chảy, có lẽ vì những nghiệp báo thương tâm xảy ra trong gia đình chị năm xưa.
Nhà chị có 6 anh em, 2 trai , 4 gái. Gia đình vừa đủ sống không thiếu thốn chi hết. Ba chị thường đi làm về trễ, nhiều lúc ba chị bị bạn bè rủ đi nhậu tới khuya mới về, thế là đồ ăn do má chị để lại cho ba hôm sau đều bị ôi thiu, vì thời đó nhà chị chưa có tủ lạnh nên đồ ăn không thể để lâu được. Mỗi khi đồ ăn để lại bị ôi thiu má chị phải đem đi đổ với vẻ mặt buồn phiền, khi đổ má chị thường kêu lên “trời ơi…trời ơi” rồi đổ. Cử chỉ hành động này kéo dài nhiều năm nhiều tháng. Sau khi chị lớn lên thì gia đình ly tán, ba thì đi lấy vợ khác có thêm 7 người con, cuộc sống với má mới và 7 người con vô cùng vất vả, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đời sống nghèo đói hiện ra rất rõ ràng trên từng khuôn mặt mỗi người trong gia đình. Lúc đó, chị mới 19 tuổi mà phải bước chân vào đời làm thuê, làm mướn để kiếm sống, dành dụm được chút ít nhưng thấy hoàn cảnh của ba thiếu thốn trăm bề nên chị cầm lòng không đặng, dù không có nhiều tiền nhưng chị vẫn âm thầm giúp đỡ ba, nhưng phải thật khéo léo vì sợ dì và mấy đứa con làm khó Ba. Mỗi tuần chị đều mua thịt, gạo đến cho Ba, lần nào đến thăm chị đều cho ba chị 20 đồng, má mới 30 đồng để dì khỏi phân bì. Nhưng khi Dì quay mặt đi thì chị nhanh tay nhét vào túi ba thêm 50 đồng nữa, phòng hờ khi Dì có lấy của Ba 20 đồng thì Ba vẫn còn 50 đồng mà xài. Thỉnh thoảng các anh em than đói nhà không còn gạo, thế là chị phải sang nhà bên mượn đỡ để anh em sống tạm qua ngày. Cuộc sống túng thiếu của gia đình ba chị mỗi ngày trầm trọng hơn không thấy dấu hiệu khá lên. Một hôm chị đến thăm ba thì thấy ba đang nhai các mắt mía của người ta bỏ. Chị hỏi tại sao ba lại ăn những thứ này? Ba chị đáp ăn để sạch miệng. Sau này chị mới biết vì quá nghèo đói nên ăn mắt mía mà sống qua ngày. Cuối cùng ba chị chết trong cảnh nghèo đói thật đau khổ!
Má chị thường nói có lẽ lúc trước đồ ăn để cho ba mày ổng không ăn làm cho ôi thiu rồi đổ đi cho nên bây giờ phải trả quả báo chết trong sự nghèo đói. Chị kể tới đây thì khóc sụt sùi trong khi xe đang chở phái đoàn trên những đoạn đường gồ ghề của xứ Ấn. Chị nói thêm về người anh thứ 2 của chị cũng bị nghèo đói, bệnh tật chết trong nỗi cô đơn vì tính bỏn xẻn với chính gia đình và các người khác. Anh thứ 2 rất thông minh, bặt thiệp khó ai trong gia đình chị sánh bằng. Sau khi lập gia đình, anh làm ăn rất khá, tiền của dư dả xây cất nhà cửa khang trang 5, 6 lầu. Tiền bạc vô như nước thế mà anh chưa bao giờ giúp đỡ ba má hay anh em trong gia đình dù đang gặp khó khăn, không ai có thể ăn được của anh dù 1 đồng. Anh chỉ biết gom góp của người khác cho mình và gia đình anh, anh không cần quan tâm đến đau khổ của ai cả. Tuy anh rất giàu có, nhưng cái gì có lợi thì anh tìm cách đưa về cho gia đình Anh, dù đó là anh em ruột hay bất cứ người nào khác, không bao giờ anh biết giúp đỡ dù chuyện nhỏ nhặt. Đối với mọi người anh đối xử rất tệ hại. Càng kể chị càng thấy đau lòng cho 1 con người đặc biệt này.
Ngay khi ba chị chết anh tự động đến trại hòm và tự đặt mua hòm loại tốt nhất, đẹp nhất để về lịm ba nhưng anh lại bắt chị trả tiền. Chị không đồng ý và chỉ lấy loại hòm hạng nhì, chị chấp nhận trả tiền. Đến khi làm đám cho ba, anh gọi thợ chụp hình đến để chụp ảnh cũng nói chị trả tiền. Lần này chị không trả thì anh lại có cử chỉ hành động không hay. Những năm 1978 tình hình kinh tế đất nước Việt nam còn nhiều khó khăn, mặc dù thời điểm ấy anh rất giàu, tiền của dư thừa nhưng anh không bao giờ giúp đỡ ai kể cả anh em trong gia đình mình. Sau khi chị vượt biên sang nước Úc vật lộn với cuộc sống đất khách quê người không ai thân quyến, suốt 25 năm sống ở xứ người, đời sống từ từ ổn định. Khi chị trở về lại Việt nam sau 25 năm xa cách, nhìn đất nước đổi thay chị thấy lòng vui vui. Những con người trước kia rất nghèo thì nay đã trở nên giàu có cuộc sống ổn định ấm no. Nhưng người anh thứ 2 của chị năm xưa giàu có thì nay lại trở thành một người không mái nhà che thân vì nhà cửa tiền bạc của anh đã bị vợ anh cướp đoạt và đuổi anh ra khỏi nhà.
Chị về tìm những người thân năm xưa, tìm nhiều nơi hỏi nhiều người mới biết anh thứ 2 đang nằm nhà thương vì bị bệnh lao thời kì thứ 3. Gặp được mặt chị anh khóc nức nở như một đứa trẻ con mất mẹ. Anh nói với chị bây giờ anh mới thấy quả báo của đời người, đúng là quả báo nhãn tiền xảy ra ngay trong gia đình anh.
-
Vào một ngày năm Canh Ngọ thời vua Càn Long, quan khố bị phát hiện mất ngọc quý, vì thế nghi ngờ tập trung vào viên quan tạp dịch. Trong đó có một vị tên là Thường Minh, khi bị thẩm vấn, bỗng nhiên giọng nói thay đổi, dùng giọng nói của một đứa trẻ nói: “Ngọc quý không phải hắn trộm, nhưng hắn là người đã hại ta. Ta chính là oan hồn của người bị hắn giết”.
Quan thẩm án nghe vậy thì hoảng hồn, càng tra hỏi thì càng đúng sự thật. Nếu là chuyện xảy ra ở thời hiện đại, khẳng định là đã nhanh chóng đưa đi xét nghiệm tâm thần. Nhưng thời ấy, từ triều đình cho đến dân chúng, đều tin quỷ thần. Nói đến chuyện quỷ thần, quan phá án kia vẫn có chút sợ, ông không dám tùy tiện quyết định, bèn lệnh đưa Thường Minh đến Hình bộ. Hình bộ vừa hay lúc đó là cha của Kỷ Hiểu Lam tiếp nhận bản án này. Ông cùng với quan phủ Giang Tô thụ lý vụ án. Phụ thể bám trên người Thường Minh nói: “Ta tên là Nhị Cách, năm nay 14 tuổi, nhà ở Hải Điến. Cha ta tên là Tinh Vọng.
Ngày 15 tháng Giêng tức Tết Nguyên Tiêu năm kia, Thường Minh cùng ta đi xem hội đèn lồng. Nào ngờ Thường Minh thích ta, lúc về đã trêu chọc ta. Ta liền liều mạng chống cự, la hét. Thường Minh nghe vậy liền cuống cuồng, dùng dây lưng siết cổ ta đến chết, rồi chôn xác ta ở dưới bờ sông. Sau đó, cha ta nghi ngờ Thường Minh hại ta, nên đã đến tuần thành Ngự Sử tố cáo hắn. Vụ án được đưa đến hình bộ, nhưng vì không có chứng cứ, kết luận cần truy bắt thủ phạm khác. Vì vậy, oan hồn của ta luôn luôn bám theo Thường Minh, mới đầu đứng cách hắn chừng 4-5 thước đã thấy nóng hừng hực, không thể tới gần. Sau thì nhiệt độ tiêu giảm dần, ta có thể tới gần hắn chừng 2-3 thước, rồi có thể gần hắn 1 thước. Ngày hôm qua ta cảm thấy không còn nóng, cuối cùng có thể bám vào trên người hắn”.
Hình bộ tìm lại hồ sơ vụ án trước kia, quả nhiên đúng như lời oan hồn nói. Quan chủ thẩm hỏi: “Xác của ngươi hiện tại ở đâu?”. Oan hồn Nhị Cách nói rằng xác chôn bên cạnh cây liễu ở bờ sông. Quan chủ thẩm cho người đến điều tra, quả nhiên đã đào thấy một xác chết, vẫn chưa bị thối rữa. Quan chủ thẩm triệu cha của Nhị Cách tới nhận dạng, vừa nhìn thấy cái xác, ông liền khóc to: “Con ơi, cha bây giờ mới tìm được con!…”. Vụ án tưởng chừng không có chứng cứ, đường đường là Hình bộ triều đình, rồi bao nhiêu quan phủ thẩm án cùng đám bà cốt vẫn không tìm ra chút manh mối. Nhưng mà oan hồn Nhị Cách đã chứng minh từng tình tiết vụ án, đều là sự thật, chứng cứ vô cùng xác thực. Sau đó lại tra hỏi thêm Thường Minh, vừa gọi tên Thường Minh, thì là giọng của Thường Minh rất tỉnh táo ngụy biện; nhưng vừa gọi tên Nhị Cách, thì lại là giọng nói của Nhị Cách, mê mê tỉnh tỉnh. Tra thẩm đến cuối cùng, chứng cứ đã hết sức xác thực, không thể chối cãi, Thường Minh chỉ có thể nhận tội.
Bản án đến đây đã rõ ràng, Hình bộ trình báo với vua Càn Long. Kết quả, Thường Minh bị phán quyết xử trảm. Vừa đưa ra phán xét, oan hồn Nhị Cách hưng phấn lạ thường, bỗng nhiên lớn tiếng hét to “Bán… bánh” – chính là lúc còn sống Nhị Cách đi bán bánh vẫn thường rao như vậy. Tiếng rao đó so với lúc Nhị Cách còn sống là giống nhau như đúc. Cha của Nhị Cách nghe thấy vậy thì xúc động nói: “Lâu rồi ta mới được nghe thấy tiếng con!”. Ông lại hỏi: “Con ơi, bây giờ con muốn đi đâu?”. Oan hồn Nhị Cách nói: “Con cũng không biết, cha, con phải đi rồi!”. Từ đó về sau, khi hỏi lại Thường Minh, thì không thấy hắn nói giọng của Nhị Cách nữa.
-
Một ngày, ngư dân dùng lưới bắt được một con rùa lớn, đúng lúc khi họ chuẩn bị giết làm thịt bán thì ông Lâm đi ngang qua, và thấy một đám đông vây quanh con rùa chuẩn bị giết nó, nhìn thấy cảnh tượng con rùa không ngừng vươn cổ cúi đầu lậy người xung quanh, hai mắt của chú rùa đầy nước mắt, dường như cầu cứu mọi người. Ông Lâm đã xuất tâm từ bi, không tiếc bỏ ra một số tiền lớn để mua con rùa, đồng thời nhờ mọi người giúp đưa nó trở lại biển để phóng sinh. Do lo lắng rằng ai đó sẽ lại bắt lấy nó và giết, vì vậy ông đã viết lên mai của rùa 5 chữ là “Gặp duyên số phóng sinh”, thông qua đó hy vọng rằng người sau sẽ từ bi, khai ân cho nó được sống tự do, đừng tùy ý giết hại nó. Sau khi viết xong họ liền đưa chú rùa ra biển phóng sinh, rất nhiều người dân tại bãi biển lúc đó đều nhìn thấy con rùa khổng lồ nổi lên, không ngừng liên tục khấu đầu tạ ơn ông Lâm.
Mọi người chứng kiến cảnh tượng đó đều cảm thấy rất cảm động. Vì vậy, họ cũng tự hứa với nhau, nếu sau này gặp phải một con rùa lớn như vậy, thì họ sẽ không bắt, không giết và cũng không ăn. Với khẩu hiệu và phương châm “3 không” này, cho đến hôm nay nó vẫn còn được lưu giữ ở khu vực này.
Sự việc đã trôi qua 16 năm, cậu con trai thứ hai của ông Lâm đã được nhận vào trường thương nghiệp tại Đài Bắc, trong dịp nghỉ lễ cậu tranh thủ về thăm nhà. Lần đó, khi đang trong chuyến hành trình trở về, do thuyền đi ngược dòng biển, thật không may con tàu bị mắc cạn và chìm. Hơn 100 hành khách trên tàu, thì có tới 90 người bị dòng nước nhấn chìm. Tại thời điểm này, con thuyền tràn đầy tiếng la hét cứu mạng, thực sự đinh tai nhức óc. Con trai ông Lâm mặc dù biết bơi, nhưng do sóng biển quá lớn, anh gần như bị nhấn chìm, cố gắng nỗ lực cuối cùng để sống sót trên biển. Đột nhiên anh cảm thấy cơ thể mình như được đẩy lên bởi một vật giống như chiếc bàn tròn lớn, nhìn kỹ, thì hóa ra anh đang nằm trên lưng một con rùa, sau đó nhìn kĩ hơn, anh thấy miệng của con rùa to giống như một chậu rửa mặt. Anh chợt hoảng sợ, nghĩ rằng chẳng lẽ mình sẽ phải chôn thân trong bụng con rùa này. Vì vậy, anh định quay người nhảy xuống dòng nước, nhưng do lúc đó đã quá đuối sức, không còn sức lực nào để mà tranh đấu tiếp nữa.
Sau đó, không biết đã qua một khoảng thời gian bao lâu, khi quay lưng lại, đột nhiên anh nhìn thấy trên lưng con rùa viết đúng 5 chữ “gặp duyên số phóng sinh”. Anh mới biết rằng, con rùa biển này chính là con rùa mà cha anh đã từng cứu mạng. Đột nhiên, tâm trạng của anh bỗng chuyển từ đau thương, sợ hãi thành niềm vui vô hạn cùng sự an ủi, hóa ra chú rùa chính là đến cứu mình. Vì vậy, anh đã ôm con rùa biển, để cho con rùa mang mình đi, trong miệng liên tụng niệm Phật hiệu và cầu nguyện.
Con rùa rất thoải mái khuấy động bốn chân, giống như đang chèo thuyền, cố gắng chống chọi lại với sóng to gió lớn để đưa anh lên bờ, khi vẫn còn chưa lên đến bờ, anh liền nhảy xuống vùng nước nông. Con trai ông Lâm liền hợp thập cảm tạ ơn cứu mạng của con rùa. Con rùa cũng vương cổ lên, gật gật đầu, giống như trả lễ lại, hơn nữa còn mở miệng cố nói gì đó, phát ra âm thanh, có vẻ như rất vui vẻ hạnh phúc chúc mừng, sau đó mới quay đầu và bơi đi, người dân trên bờ đều lo lắng vội tới chúc mừng.
Trong vụ đắm tàu lần này, chỉ có vài chục hành khách còn sống sót, sau cuộc điều tra mọi người phát hiện ra hóa ra họ thực sự đều là những người con hiếu thảo, những người phụ nữ đức hạnh, và thường ngày hay làm những việc thiện, chúng ta có thể nhìn thấy ông Trời đều đang ban phúc lành bảo hộ cho những người lương thiện, nhân từ và tốt bụng.