Top 10 Loại hình diễn xướng dân gian nổi tiếng nhất Việt Nam

Triệu Triệu Thành 470 0 Báo lỗi

Diễn xướng dân gian là những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật gắn liền với mọi mặt đời sống của người dân Việt Nam. Mỗi làn điệu lại đặc điểm riêng, kỹ ... xem thêm...

  1. Chầu văn, hay còn gọi là hát văn, là một thể loại âm nhạc tín ngưỡng, gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), nằm trong tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Việt. Hát văn sử dụng loại âm nhạc mang tính tâm linh, lời ca trang trọng, tế nhị, được coi là hình thức ca hát mang tính cung kính. Hát văn có nguồn gốc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và hát cung đình ở Huế.


    Hát văn được chia làm 4 kiểu:

    • Hát thi: Dùng để lấy giải, chủ yếu hát đơn.
    • Hát thờ: Vào ngày rằm, Mùng 1, Tất niên.
    • Hát hầu đồng: Là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tam - Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng, bà Cốt (là những người có thể cho thần linh mượn thể xác để có thể phán bảo, giao tiếp với người sống).
    • Hát cửa đền: Hát vào đầu xuân, phục vụ khách hành hương.

    Trình diễn trong hát Chầu văn gồm các phần: Mời Thánh nhập - Kể sự tích Thánh - Xin Thánh phù hộ - Đưa tiễn Thánh. Cung văn (là người hát văn trong các giá hầu đồng) ngồi bên mé trong, gọi là để tử Thánh, hai bên cung văn là nhạc công tấu nhạc cùng ban phụ họa hát theo. Ngoài ra còn có người phụ việc sửa soạn khăn áo để khi Thánh nhập thì ăn khớp với giá đồng. Người phụ việc còn lo các lễ vật dâng Thánh và phát lộc Thánh cho những người đến cung nghênh.


    Vào năm 1954, Hát văn dần mai một vị hầu đồng bị coi là mê tín dị đoan. Tới đầu năm 1990, Hát văn lại có cơ hội phát triển. Đến năm 2016, di sản "Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt" được UNESCO ghi danh là "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại".


    Một sô nghệ nhân hát Văn nổi tiếng: Nghệ sĩ Hoài Thanh, Nghệ sĩ Thanh Long, Khắc Tư, Trọng Quỳnh, NGƯT Xuân Hinh,...

    Địa bàn diễn xướng: Các trung tâm của hát văn là Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

    Chầu văn
    Chầu văn "Cô bé" được diễn xưỡng bởi NGƯT Xuân Hinh
    Nghi lễ Hầu Đồng

  2. Top 2

    Ca trù

    Ca trù hay còn được biết tới là hát cô đầu, hát nhà trò phát triển và phổ biến từ thế kỷ 15 tại Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta. Đây là loại hình diễn xướng được giới quý tộc, tri thức cũng như cung đinh ưa thích và là sự kết hợp đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.


    Một tác phẩm Ca trù sẽ có 3 nghệ nhân chính đó là:

    • Đào nương/Ca nương (nữ): Là nhân vật quan trọng nhất, là linh hồn của bài hát, cất lên tiếng hát với đôi tay gõ phách.
    • Kép (nam): Nhân vật gảy đàn cho Đào nương.
    • Quan viên (nam): Người cầm chầu, am hiểu ca trù. Ngoài việc đánh trống cho Đào hát, còn có nhiệm vụ chấm thưởng mỗi khi hát hay, đàn giỏi, phách tài.

    Vì là thể loại âm nhạc thính phòng, nên không gian trình diễn ca trù có diện tích tương đối nhỏ. Đào ngồi hát trên chiếu ở giữa, Kép và Quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay ở chiếu gọi là "tức tịch" (ngay ở chiếu).


    Ngày 1 tháng 10 năm 2009, Ca trù chính thức được UNESCO ghi danh là Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Hiện nay đang có hồ sơ đề cử Ca trù là Di sản văn hóa Thế giới, bởi không gian văn hóa Ca trù trải khắp 16 tỉnh phía Bắc: Phú Thọ, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Ca Trù là kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.


    Một số nghệ sĩ Ca trù nổi tiếng: NSND, Danh ca Quách Thị Hồ; NSND, danh ca Phó Thị Kim Đức; Nghệ nhân dân gian Nguyễn Thị Khướu,...

    Địa bàn diễn xướng: Bắc Bộ và Bắc Trụng Bộ

    Ca trù - Di sản phi vật thể của nhân loại
    Ca trù - Di sản phi vật thể của nhân loại
    Ca trù "Hồng Hồng Tuyết Tuyết" - NSND Hoài Thanh
  3. Top 3

    Chèo

    Ra đời từ thế kỷ X, Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Theo thời gian, loại hình sân khấu truyền thống vốn thịnh hành ở các vùng quê đồng bằng sông Hồng dần lan tỏa sang vùng trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Với những giá trị nghệ thuật đặc sắc, nghệ thuật Chèo đang được Việt Nam nghiên cứu xây dựng hồ sơ để trình lên UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.


    Khác với các loại hình dân gian khác, Chèo mang tính quần chúng, đậm đà bản sắc dân tộc và được coi là loại hình sân khấu của hội hè. Loại hình này với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von, giàu tính tự sự, trữ tình. Trong quá trình biểu diễn đòi hỏi các diễn viên phải thể hiện đầy đủ các kỹ năng hát, múa, diễn trên nền nhạc do các nhạc công hòa tấu bằng nhiều nhạc cụ như trống, mộc, sáo, đàn nhị, đàn tranh,... tạo hiệu ứng lan tỏa của lời hát.


    Nội dung các vở Chèo thường miêu tả cuộc sống bình dị của nhân dân lao động, qua đó ca ngợi những tấm gương nhân - nghĩa - lễ - trí - tín. Đồng thời phê phán những thói hư, tật xấu, chống lại bất công, thể hiện tình yêu, lòng nhân ái, bao dung, vị tha. Bởi vậy khi xem Chèo, người ta không chỉ được tận hưởng những giây phút nhẹ nhàng, đầy ắp tiếng cười mà còn có cơi hội để trải lòng và suy ngẫm về cuộc đời. Nhân vật trong Chèo, thường là những người nông dân lao động có số phận bất hạnh (đặc biệt là người phụ nữ) có số phận bất hạnh, với các mối quan hệ dung dị đời thường như: cha con, vợ chồng, anh em, chủ tớ,...


    Một số nghệ sĩ Chèo nổi tiếng: NSND Thanh Ngoan, NSƯT Thùy Dung, NSƯT Ngọc Bích, NSƯT Kim Liên, NGƯT Ngọc Sơn, NSND Quốc Trượng,...

    Địa điểm diễn xướng: Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Chèo Ninh Bình,...

    Chèo sân đình Kim Liên (Đống Đa, Hà Nội)
    Chèo sân đình Kim Liên (Đống Đa, Hà Nội)
    Quả Cau Vàng - Đoàn nghệ thuật Vĩnh Phúc
  4. Múa rối nước (hay còn gọi là trò rối nước), là một loại hình diễn xướng dân gian truyền thống mang đậm dấu ấn của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Từ một loại trò chơi mà những người nông dân sáng tạo ra trong những phút nghỉ ngơi sau lao động mệt nhọc, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền thống, một sáng tạo đặc biệt của người Việt.

    Không chỉ đơn giản là điều khiển con rối ở trên mặt nước, loại hình này có sự kết hợp của nhiều yếu tố như ca, múa, nhạc, diễn, hề,... cùng những hiệu ứng âm thanh, ánh sáng, khói, dàn nhạc, câu thoại,... tất cả tạo thành một tiết mục múa rối đặc sắc, sống động.


    Điều thú vị của nghệ thuật diễn xướng là thể hiện ngay từ tên gọi "Múa rối nước" - lấy nước làm sân khấu (gọi là nhà rối hay thủy đình) để biểu diễn. Những con rối thì thường được làm bằng gỗ sung vì đặc tính nhẹ giúp con rối nổi được trên mặt nước. Âm nhạc trong múa rối nước là các làn điều Chèo, hay các bài dân ca Bắc Bộ. Vốn là một nghệ thuật lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt. Rối nước gắn bó với âm nhạc, theo tiết tấu nhạc mà điều kiện con rối lúc khoan thai, lúc sôi động giúp gắn kết các tiết mục lại với nhau. Nội dung các tiết mục múa rối nước thường xoay quanh các tích dân gian, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người nông dân như đi bừa, đi cấy, chăn vịt, đấu vật, đua thuyền,...


    Ngày nay, múa rối nước là một loại hình diễn xướng dân gian thu hút đông đảo khách du lịch, đặc biệt là giới trẻ và du khách quốc tế - những người hứng thú với những điều mới lạ và độc đáo.


    Địa điểm diễn xướng: Nhà hát múa rối nước Thăng Long, Nhà hát múa rối nước Việt Nam, Nhà hát múa rối nước Cánh Diều,...

    Múa rối nước thu hút du khách quốc tế
    Múa rối nước thu hút du khách quốc tế
    Kịch rối "Quê em chống dịch" tại Nhà hát múa rối Thăng Long
  5. Quan họ là thể loại dân ca giao duyên tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng. Nó được hình thành và phổ biến ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa (là tỉnh cũ bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) với dòng sông Cầu chảy qua được gọi là "dòng sông quan họ". Do có sự chia cắt về mặt địa lý, nên quan họ ngày nay gắn tên cục bộ địa phương như Quan họ Bắc Ninh, Quan họ Bắc Giang.


    Vào ngày 30/9/2009, hồ sơ Quan họ Bắc Ninh đệ trình lên UNESCO đã được phê duyệt và đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại kỳ hợp thứ tư của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể.


    Nhìn chung trong Quan họ người ta bao giờ cũng hát đôi. Khi một đôi trong Quan họ xướng thì bên kia cũng chuẩn bị một đôi để xướng đáp lại. Chính vì vậy hát Quan họ là loại dân ca giao duyên, đối đáp. Những nghệ nhân hát Quan họ thường được gọi là liền anh, liền chị. Cấu trúc của một điệu hát được hình thành từ những lễ kết nghĩa. Lễ kết nghĩa thường bắt đầu từ những lời chào chân thành hoặc những lời thề nguyện.


    Lời ca trong Quan họ chủ yếu nói về tình cảm nam nữ, sự thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh chị em, bạn hoặc tôi. Địa điểm hát thường là sân nhà, trước cửa đình, chùa, trên thuyền,...


    Địa bàn diễ xướng: Theo thống kê năm 2016, có 67 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa (Bắc Giang có 23 làng quan họ, Bắc Ninh có 44 làng quan họ)

    Liền anh, liền chị Bắc sông Cầu hát quan họ truyền thống
    Liền anh, liền chị Bắc sông Cầu hát quan họ truyền thống
    Tác phẩm Quan họ "Người ơi người ở đừng về
  6. Top 6

    Tuồng

    Tuồng (hay còn gọi là hát bộ, hát bội) là một loại hình nghệ thuật sân khấu cân đối có tính cổ điển, bác học bậc nhất của Việt Nam. Với ngôn ngữ văn chương, bác học kết hợp nhuần nhuyễn với chữ Hán và văn Nôm, Tuồng là nghệ thuật tổng hợp có cả văn học, hội họa, âm nhạc, trò diễn,... thể hiện giá trị và bản sắc truyền thống của dân tộc.Theo lịch sử, Đào Duy Từ (1572 - 1634) là người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật Tuồng của nước ta, một số nơi tôn thờ ông là ông tổ của nghệ thuật sân khấu Tuồng.


    Khác với loại hình sân khấu Chèo, Tuồng mang âm hưởng hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người về việc lựa chọn giữa cái riêng và cái chung, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng chính là đặc trưng của diễn xướng Tuồng. Có thể nói Tuồng là sân khấu của những anh hùng.


    Nghệ thuật Tuồng không tả thực mà tả ý, không đi sâu vào những chi tiết tỉ mỉ mà chú trọng lột tả cái "thần" của sự kiện và con người, dùng phương phác gợi tả để lôi kéo trí tưởng tượng của khán giả cùng tham gia sáng tạo và đồng cảm với các nghệ sỹ. "Cái thần" chính là đỉnh cao của nghệ thuật diễn xướng Tuồng. Ngôn ngữ Tuồng sử dụng chất giọng to, cao và rõ. Điệu hát quan trọng nhất trong Tuồng đó chính là "nói lối" (tức là nói một lúc rồi mới hát). "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và "Ai". "Xuân" là giọng hát vui tươi, "Ai" là bi thương, ảo não.


    Một số nghệ sĩ Tuồng nổi tiếng: NSND Nguyễn Nho Túy, NSND Lê Tiến Thọ, NSND Mẫn Thu, NSND Ngọc Phương,...

    Địa điểm diễn xướng: Nhà hát Tuồng Việt Nam, Nhà hát Tuồng Đào Tấn, Nhà hát nghệ thuật Hát Bội Thành phố Hồ Chí Minh,...

    Vở Tuồng
    Vở Tuồng "Tam Khúc Chúa" tại Nhà hát Tuồng Việt Nam
    Vở Tuồng "Khúc Gia Trang Dậy Sóng Trời Nam" tại rạp hát Hồng Hà
  7. Hát xoan là thể loại khúc môn đình (tức hát cửa đình), hát thờ thần, Thành hoàng. Là thể loại dân ca nghi lễ gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng trong đời sống sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước vùng trung du Bắc Bộ. Hát xoan sử dụng hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, múa, hát, thường được tổ chức vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương - Phú Thọ.


    Vào ngày 24/11/2011, hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ đệ trình lên UNESCO đã được phê duyệt và đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp tại kỳ họp thứ sáu của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia. Tối ngày 3/2/2018, UBND tỉnh Phú Thọ cùng với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Lễ đón bằng của UNESCO ghi danh Hát Xoan - Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại Miếu Mãi Lèn, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.


    Thường vào mùa xuân, các "phường Xoan" lần lượt mở hội ở đình lang, miếu làng. Vào mùng 5 âm lịch sẽ hát ở Hội đền Hùng. Thời điểm hát được quy định tại một điểm nhất định, mỗi "phường" sẽ chọn một vị trí cửa đình.

    Trình tự một cuộc diễn xướng Hát xoan gồm có 3 chặng:

    • Chặng nghi thức: Nói lên những tình cảm, xúc cảm của con người trước thần linh, ca ngợi thần thánh, vái lạy, thỉnh cầu thần linh về dự tế lễ, giúp dân làng an khang thịnh vượng.
    • Chặng hát quả cách: Nhằm mô tả đời sống sinh hoạt của người dân, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và kể chuyện cổ tích.
    • Chặng giao duyên: Phản ánh tình cảm giao duyên giữa trai và gái, mang sắc thái trữ tình, thấm đẫm trần tục, khác xa với không khí thiêng liêng của hát thờ, trang nghiêm của Hát quả cách.

    Địa bàn diễn xướng: Hiện nay, có bốn "phường Xoan" cổ đó là An Thái, Phú Đức, Kim Đới, Thét thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

    Chặng giao duyên của một cuộc diễn xướng Hát xoan
    Chặng giao duyên của một cuộc diễn xướng Hát xoan
    Mó cá - Hát xoan Phú Thọ
  8. Hát xẩm là một loại hình diễn xướng dân gian mang đậm tính nhân văn, thẩm mĩ và giáo dục về đạo đức, lối sống cho mọi tầng lớp xã hội, ra đời đã hơn 700 năm. Được biết tới là hình thức hát rong phổ biến trong xã hội phong kiến trước đây, Xẩm không chỉ là phương tiện kiếm tiền mưu sinh của những người khiếm thị mà còn là hoạt động giải trí của người nông dân lúc nông nhàn, là tiếng lòng của con người đối với cuộc sống cá nhân, xã hội và đất nước.


    Ban đầu, Hát xẩm là phương tiện mưu sinh của những người dân nghèo, người khiếm thị, nay đã được sân khấu hóa và đưa vào phục vụ khách du lịch. Xẩm thường được biểu diễn ở những nơi đông người qua lại như chợ, đường phố,... Hát xẩm là loại hình âm nhạc có tính ngẫu hứng và người biểu diễn có thể bật ra câu hát ngay khi trình diễn.


    Nghệ thuật Hát xẩm là loại hình âm nhạc vừa hát vừa kể chuyện mang tính tự sự và lời văn. Các bài Xẩm chủ yếu là truyền khẩu và không có tác giả, chủ đề phản ánh tâm tư nguyện vọng của thường dân, nông dân và phụ nữ trong xã hội phong kiễn xưa. Ngoài ra, còn có nhiều bài Xẩm nói về tinh thần lạc quan, tình yêu đôi lứa, công ơn sinh dưỡng của cha mẹ,... Trong chiến tranh, Xẩm cũng có nội dung cổ vũ tinh thần yêu nước, tận tụy với Đảng, vì nước, vì dân.


    Một số nghệ sĩ nổi tiếng: NSƯT Hà Thị Cầu (Ninh Bình) - "Người hát Xẩm cuối cùng của thế kỉ XX", Vũ Đức Sắc, Thân Đức Chinh, Nguyễn Văn Khôi,...

    Địa điểm diễn xướng: Câu lạc bộ Xẩm Hà Thành, Câu lạc bộ Xẩm Hải Thành,...

    Nghệ sĩ Hà Thị Cầu (1928-2013) - người hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ XX
    Nghệ sĩ Hà Thị Cầu (1928-2013) - người hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ XX
    Tác phẩm "Theo Đảng trọn đời" của nghệ sĩ Xẩm Hà Thị Cầu
  9. Cồng chiêng Tây Nguyên thuộc thể loại âm nhạc tín ngưỡng trải rộng suốt năm tỉnh Tây nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Vào ngày 25/11/2005, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam chính thức được UNESCO công nhận là Kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.


    Tín ngưỡng chủ đạo của người dân nơi đây chính là tục thờ cũng tổ tiên, Shaman giáo, và thờ cúng vật linh. Gắn bó mật thiết cuộc sống hàng ngày của họ nên tín ngưỡng này hình thành nên một thế giới khác, thần bí, nơi mà những chiếc cồng chiêng là cầu nối giúp con người giao tiếp được với thần linh và thế giới siêu nhiên. Người dân nơi đây quan niệm rằng mỗi chiếc cồng, chiêng là một vị thần "Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh". Hầu hết, mọi gia đình nơi đây đều có cồng chiêng. Điều này thể hiện sự giàu có và quyền thế.


    Những yếu tố tạo nên Không gian văn hóa cồng chiêng bao gồm: Cồng chiêng, các bản nhạc tấu, những người chơi cồng chiêng. Người dân nơi đây sử dụng cồng chiêng vào những dịp đặc biệt (Lễ cưới, Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng bến nước,...). Địa điểm tổ chức lễ hội đó là: Nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh buôn làng,...)


    Hiện tại, Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa giữ gìn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách.


    Địa bàn diễn xướng: Năm tỉnh Tây nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng)

    Một buổi lễ hội cồng chiêng tại khu rừng cạnh buôn làng
    Một buổi lễ hội cồng chiêng tại khu rừng cạnh buôn làng
    Cồng chiêng Tây Nguyên diễn ra tại Nhà rông
  10. Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, ra đời vào cuối thế kỷ 19, bắt nguồn từ nhạc Tuồng Bắc, nhạc lễ Nam Bộ, một phần của ca Huế và ca nhạc dân gian Trung Nam Bộ. Vào ngày 5/12/2013, Đờn ca tài tử Nam bộ được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại có vùng ảnh hưởng lớn, với phạm vi 21 tỉnh phía Nam. Đờn ca tài tử là nghệ thuật của đàn (đờn) và ca, do những người bình dân Nam Bộ sáng tác để hát chơi sau những giờ lao động vất vả. Tron đó "tài tử" được hiểu là tài năng, bậc thầy, người đàn thường được gọi là "tài tử đờn", người hát thì được gọi là "tài tử ca".


    Biểu diễn Đờn ca tài tử thường trình diễn theo nhóm, một nhóm có 4-8 người và có 5 nhạc cụ chính (đàn tranh, đàn tỳ bà, kìm, đàn có và đàn tam kết hợp với sáo bảy lỗ). Người hát có thể là nam hoặc nữ bình đẳng. Thời điểm diễn của Đờn ca tài tử không chỉ trong những dịp đặc biệt mà ban nhạc còn diễn theo yêu cầu của khách du lịch, hoặc biểu diễn theo ngẫu hứng. Địa điểm biểu diễn có thể là những nơi như bóng mát, sân đình, trên thuyền.Những tác phẩm Đờn ca tài tử thường nói về những vẻ đẹp của sự vật hiện tượng, đời sống sinh hoạt của người dân lao động.


    Ngày nay, Đờn ca tài tử mặc du không còn thịnh hành như trước nhưng đây vẫn là một loại hình diễn xướng được nhiều người yêu thích và đước trình diễn thường xuyên.


    Một số nghệ sĩ Đờn ca tài tử nổi tiếng: Cao Văn Lầu, Trần Văn Khê,...

    Địa bàn diễn xướng: Trải rộng 21 tỉnh phía Nam

    Ban nhạc Đờn ca tài tử
    Ban nhạc Đờn ca tài tử
    Tài tử Nam Bộ - Xuân Tình




xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |